Dân văn Sư phạm I, thật chẳng khoá nào như cái khoá 79-83 chúng tôi! Hồi ấy, lần đầu tiên tổ chức thi học sinh giỏi trên qui mô toàn quốc, lần đầu tiên có chuyện đội tuyển được vào thẳng Sư phạm. Đông quá là đông. Và toàn những tay khá cả. Mà đã khá thì thường kiêu và quậy. Tôi đoán hồi ấy các cụ trong khoa chắc là điên đầu lắm về đám kiêu binh. Nhiều giáo viên đã không kiên nhẫn được khi giờ dạy cứ thấy lớp trống hàng mảng. Đến giờ của thầy chủ nhiệm lớp mình mà cũng bỏ bê không thương tiếc, thì thật là… Ban chủ nhiệm khoa, đảng uỷ khoa, chi bộ sinh viên, liên chi đoàn khoa đã phải vào cuộc về chuyện này. Nhiều biện pháp được áp dụng. Nhưng hiệu quả yếu. Đã thế, hồi ấy lại có hàng loạt khẩu hiệu tệ hại lưu hành trong giới sinh viên “không trốn tàu không phải sinh viên”, “không bị ghẻ không phải sinh viên”, “không bỏ học không phải sinh viên”… chúng đã từng là những “viên đá tảng” triết lí cho đám kiêu binh ỷ vào. Cáu tiết, chủ nhiệm khoa đã đập bàn trong cuộc họp với các giáo viên chủ nhiệm và cốt cán của khoá. Tôi nhớ, phải họp lớp, họp chi đoàn, thậm chí, họp phòng, quán triệt liên miên, rồi những dọa nạt không cho thi, trừ điểm, hạ hạnh kiểm. Nhưng cũng chả mấy ăn thua. Rắn không lại. Vài kẻ sợ thôi, còn vẫn thế. Nhiều cụ dạy buồn chết đi được, ở nhà đọc sách còn hơn. Lớp cứ trống dài dài…
Nhưng, cứ giờ thầy Phi thì luôn chật cứng.
Không cán bộ tổ chức nào nhắc nhở. Không cán bộ lớp nào phải xua quân. Không đứa nào động viên đứa nào. Cứ đến buổi là như nêm, như hội. Mà lạ. Lúc trật tự, lặng phắc cứ như giáo đường. Lúc lại oà lên, râm ran như chợ vỡ. Giờ nào cũng như giờ nào.
Tôi còn nhớ giờ đầu tiên học ông là về Kinh Thi. Ông giảng như thăng đồng. Bục giảng cứ muốn thành sân khấu. Thầy giáo bỗng chốc thành nghệ sĩ. Ông lên xuống, ông viết, nói, vung tay, chỉ tay, xỉa tay, giọng nói mảnh như kim nhưng sắc, sáng và say: “Lá cây ơi lá cỏ ơi, gió nó thổi mày đấy!” Hình như ông hát chứ không phải đọc diễn cảm nữa. Ông phân tích vẻ đẹp của Kinh Thi theo một cung cách rất độc đáo: vừa cảm, vừa luận, vừa phê phán cách dịch chưa chuẩn, cách hiểu chưa đúng, cách tán chưa tới, cách cắt nghĩa vu vơ, cách qui kết vô lối. Bình những chỗ tâm đắc, ông dùng mọi ngôn ngữ có thể có: miệng nói, tay viết, mắt diễn, toàn thân đều lên tiếng. Khi ấy, cái lưng vốn hơi còm muốn kéo ông xuống, nhưng cảm hứng dào dạt lại muốn nhấc bổng ông lên, nên khuôn mặt ông cứ nhướng lên, nghênh nghênh, say sưa, ngây ngất. Mỗi lần ông nhấn mạnh vào một từ, một ý nào đó, toàn thân cứ nhoài mãi về phía đám sinh viên của mình. Có những hôm khoái quá, tôi lên ngồi bàn đầu, thấy rõ, từ thân hình mảnh dẻ đang muốn cất bổng lên của ông như có một nhiệt hứng nồng nàn toả ra. Tôi nhớ, không ít lần đã phải khẽ né sang đứa bên cạnh để tránh luồng khí ấy táp vào mình. Giảng đường cứ liên tục những đợt hết “ôi” lại “a”.
Những buổi giảng thơ Đường cũng thế. Sao mà thông kim bác cổ! Chỉ có một chữ “thâm” trong câu thơ Đỗ Phủ Quốc phá sơn hà tại/ Thành xuân thảo mộc thâm mà ông nói được dài thế. Ông so sánh với những chữ này chữ khác để khẳng định rằng “thâm” mà dịch là “xanh”, là “tươi”, là “um”, là “âm u”, là “thẳm”… là không thể được, không thể ra thơ và càng không ra Đỗ Phủ được. Rằng chữ “thâm” ấy không chỉ gồm không gian mà chứa cả thời gian, không chỉ có cảm nhận thiên nhiên mà còn cảm nhận thế sự, không chỉ có cảm giác thời cuộc mà còn cả kí thác về thân phận, nó là trực quan, nó cũng là triết lí. Một chữ “thâm” thế thôi mà bao nhiêu dâu bể của một thời đại, của một đời người. Khiếp. Nếu không có căn cứ, thì chắc sẽ thành tán. Mà tán, thì chỉ vài buổi thôi, đám kiêu binh sẽ bỏ hết. Đằng này, cụ nói đến đâu chứng lí đến đấy. Lời dẫn thì lô gic, đầy lí lẽ, chứng cớ, viện đến cả chục cuốn sách và từ điển, lời bình thì tinh tế, tinh tường, giọng điệu thì cứ xoắn lấy người nghe, chẳng chịu buông. Đúng là, buổi giảng của một chuyên gia đầu ngành có khác. Có người giỏi cái vi mô, tiểu tiết, có người chỉ giỏi cái vĩ mô, chung chung. Thầy thì cố gắng qua cái vi mô đế thấy cái vĩ mô. Qua một câu thơ mà thấy cả Đỗ Phủ. Qua Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị mà thấy toàn bộ Đường thi. Qua một con người, một giờ giảng mà như được tiếp xúc với cả một nền văn hoá. Nghe xong mỗi giờ của cụ Phi, ai nấy đều sung sướng và mệt mỏi. Chắc thầy cũng mệt mỏi, nói như trút lòng, dốc trí ra như thế, không mệt làm sao được. Rời giảng đường về cứ như rời nhà hát. Hồi ấy, cái mốt xin chữ kí chưa thịnh hành, chứ nếu như bây giờ thì…
Chính từ những giờ giảng của thầy Phi, mà khi ấy tôi đã vỡ lẽ được hai điều rõ rệt. Rằng, để sinh viên đến giảng đường, áp lực của kỉ luật, của trách nhiệm, của ý thức lễ nghĩa là rất cần, nhưng vẫn không thay thế được cái quyết định nhất: sức hấp dẫn. Sinh viên như những mạt sắt tản mạn, sức hấp dẫn ở ông thầy là nam châm. Nam châm không đủ mạnh, thì có ép đến thế nào, mạt sắt cũng rời ra, bong ra thôi. Và thật nực cười cho ai, cứ thích ra uy, ra oai, cậy quyền, ỉ thế để ép người học đến nghe mình hòng bù vào thỏi nam châm yếu của mình. Rằng, một thầy giáo dạy văn đại học phải thế: vừa là nhà khoa học, vừa là nhà sư phạm, vừa là nhà nghệ sĩ. Thiếu hụt một trong những yêu cầu ấy, thật khó có thể trụ lại trên giảng đường Văn khoa. Hội đủ trong mình ba phẩm chất đó như thầy Phi chắc không có nhiều. Về sau, được học thêm những giờ giảng của thầy Mạnh, thầy Khung, thầy Luận, thầy Châu, thầy Sử… tôi càng nung nấu và tin vào những vỡ lẽ ban đầu ấy. Nhất là đến khi cũng trở thành một thầy giáo đại học ngành văn, tôi càng thấy những ấn tượng về một người thầy trên bục giảng đại học trong buổi đầu mà thầy Phi đã gieo vào tôi có ý nghĩa sâu sắc thế nào.
Hồi ấy, tôi đã biết gì về gia thế nhà thầy đâu. Tôi thích ông hoàn toàn vì đó là một thầy dạy hay, một chuyên gia đầu ngành về văn học Trung Quốc. Còn dòng dõi nhà nho của thầy Phi bây giờ ít ai không biết. Sách báo nói nhiều, truyền tụng trong dân gian cũng nhiều, mà thầy kể ra cũng nhiều, càng gần đây càng nhiều hơn. Và lần nào được nghe, tôi cũng thấy ngưỡng mộ. Thân phụ thầy là cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm mà danh tiếng về thông minh, đỗ đạt đã đi vào cả giai thoại dân gian như một bậc kì tài của xứ Nghệ. Nghe kể rằng khi cụ sinh ra, chim quí đến kêu trên nóc nhà, hương lạ toả đầy cả sân vườn. Người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khắc Viện, một nhà trí thức lớn có nhiều đóng góp cho cách mạng và văn hoá dân tộc; và người chị Nguyễn Thị Thiếu Anh từng là nữ sinh trường Đồng Khánh, bị đuổi học vì mắng cả một thầy giáo người Tây dám xúc phạm người An Nam, bà vốn là tác giả bài thơ “Chiếc nón bài thơ” có tiếng một thời, gần đây lại cho xuất bản một tập truyện rất thú vị nữa. Còn cùng cha cùng mẹ với ông là người anh Nguyễn Khắc Dương, một nhà thần học tên tuổi thuộc kitô giáo và hai người em là Nguyễn Khắc Phê và Nguyễn Thị Dư Khánh đều là những nhà văn, nhà giáo được nhiều người biết đến. Là con đẻ của một gia đình như thế, hẳn thầy đã được thừa hưởng gen di truyền và một nền nếp gia giáo ưu tú. Tất nhiên, để trở thành một chuyên gia đầu ngành thì cái thông minh bẩm sinh và truyền thống chỉ là một phần, sự nỗ lực bền bỉ của cá nhân vẫn phải là nhân tố rất lớn, nhất là ở cái thời mà một lí lịch gia đình như thế là lực đẩy thì ít là lực cản thì nhiều. Tôi biết, đằng sau mỗi bài giảng, bài viết của ông, bên dưới mỗi chặng đời của ông có biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt. Có điều ông hay kể, có chuyện chả thấy ông kể bao giờ…
•
Có thân hình mảnh khảnh, nhưng thầy Phi lại là người giàu sức sống, ham thể thao và rất văn nghệ. Thầy chơi bóng bàn chả chịu nhường đám trẻ. Thầy hát cả nhạc Ta, nhạc Tàu, nhạc Tây và cả nhạc trẻ nữa. Có lần, thầy đã thách chúng tôi hát đọ nhạc Trịnh với thầy. Mà thầy toàn chơi bài độc cả. Ví như, về Hà Nội, chúng tôi hát “Nhớ mùa thu Hà Nội”, thầy hát “Đoản khúc thu Hà Nội” bài rất ít người hát, chúng tôi hát “Hoa xuân ca”, thì thầy thích chơi “Đoá hoa vô thường” khó ơi là khó. Lần nào chiến thắng được bọn trẻ, thầy cũng có cái khoái thú rất hồn nhiên. Tôi thì rất thích cái khả năng nắm bắt những tình huống trữ tình cũng như trào phúng của cuộc đời, sau đó sáng tác thành thơ phú, câu đối để tặng nhau, để giễu nhau nữa, rất nhanh ở thầy. Khả năng này xuất phát từ chuyên môn, nhưng cũng xuất phát từ một hồn trẻ đầy tính văn nghệ của thầy. Kể cả khi còn ở khoa hay sau này ra ngoài Bộ, làm Tổng biên tập nhà xuất bản Giáo dục, tham gia Hội đồng Ngữ Văn, rồi làm tổng chủ biên sách giáo khoa, bận tối mắt tối mũi, mà thầy vẫn giữ được phong cách sống rất văn nghệ này. Có những bài thầy làm xuất thần. Nhớ hồi các cụ được suất đi Liên Xô (cũ) để trao đổi khoa học gì đó. Mọi người mới lao vào học tiếng Nga. Trưởng nhóm là cụ Bùi Văn Ba. Sau khi đi về, thầy Phi đã kể chuyện xướng hoạ thơ và đọc ngay bài của thầy giễu bạn rất hóm cho tôi nghe: “Toán trưởng Bùi Văn Ba/ Tấp tểnh học tiếng Nga/ Đếch phải vì khoa học/ Chỉ vì… Natasa”. Viết về bạn như thế thì tài thật, quái thật, trẻ nữa. Vì thế thầy rất hoà đồng với đám sinh viên có máu văn nghệ. Đám kiêu binh hồi ấy bày ra đủ trò nghịch ngợm tinh quái. Người ta vẫn nói “nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò”. Nhưng quỉ ma có thấy bao giờ, nên nhất học trò thôi. Ngoài chuyện học hành nghiên cứu, chúng tôi chơi cũng dữ, tập tọng viết lách, rồi làm hịch, làm cáo. Những buổi “nửa đêm truyền hịch”, “rạng ngày bố cáo” cứ ầm ĩ đèn đuốc, náo loạn xô chậu dài dài trong kí túc A7. Bấy giờ đọc cáo hịch trở thành một hiện tượng trong đời sống Kí túc xá sư phạm. Sinh viên cả trường đều khoái và thắc thỏm chờ đợi, vì hiếu kì cả vì ganh tị nữa. Ngại ầm ĩ, cũng có cán bộ không thích, muốn dẹp. Có cuộc đã bị dẹp khá thô bạo. Nhưng thầy Phi bao giờ cũng thuộc về phái “lờ” đi để đám sinh viên được dễ thở một chút. Có nhiều bài hịch bài cáo hay đáo để, bao khoá sau hãy còn truyền tụng, như “Cáo cử nhân đăng trường ứng thí”, “Cáo tú tài tựu trường”, “Hịch sống vệ sinh”... Cái sinh hoạt hịch cáo rất sinh viên này về sau thất truyền kể cũng tiếc. Hình như, thầy nào trò ấy, chúng tôi làm cả vè dựng chân dung các thầy nữa. Tếu táo, nghịch ngợm phát khiếp lên được. Bài vè ấy, có thầy biết thầy không. Nhưng nó đã được “bí mật lưu hành” trong khoá tôi hồi ấy. Sau này, khi đã ở lại khoa, tôi đã đọc cho một vài vị nghe. Có vị nghe xong không thấy nhắc gì đến mình thì nhẹ cả người. Có vị rất khoái chí vì chúng nó dành cho mình câu rất hóm, có vị nghe nhắc mình ở một câu không nhẹ lắm thì cáu: “bọn này láo thật”. Lại có vị, nghe mãi không thấy mình được nhắc trong bài vè cũng buồn. Thì ra, được đi vào bài vè của đám nhất quỉ nhì ma cũng tức là đã đi vào lòng chúng nó. Biết đâu, nhờ thế mà có người bất tử cũng nên. Tôi vẫn còn nhớ lõm bõm mấy đoạn.
Vừa dạy vừa hát
Là thầy Thế Cường
Vừa dạy vừa “lườm”
Là thầy Trường Phát
Vừa dạy vừa quát
Là thầy Hoàng Dung
Trống đánh lung tung
Là thầy Nghĩa Trọng
Chẳng biết thầy Phi đã được đứa nào trong khoá ấy đọc cho nghe bao giờ chưa. Còn tôi, thì chưa lần nào. Thực ra, ông là người rất dân chủ, ưu chuyện tếu táo, sẵn sàng tán gẫu ngang ngửa với học trò. Nghe bài vè, hẳn phải thú vị lắm. Bởi thầy sẽ thấy cái máu văn nghệ hài hóm đó là của các sư phụ như thầy truyền lại cho đám học trò chứ đâu. Vả lại, chân dung thầy cũng là những nét… đâu có tệ:
Vừa dạy vừa kể
Thầy Nguyễn Hoàng Tuyên
Vừa dạy vừa khuyên
Thầy Nguyễn Đình Chú
Vừa dạy vừa dỗ
Là thầy Thái Bình…
…Cười nhiều hơn giảng
thầy Dư họ Hoàng…
…Người bé tiếng vang
Cô Trịnh Thu Tiết
Suốt ngày Xô Viết
Thầy Nguyễn Hải Hà
Giờ giấc nhất khoa
Thầy Phùng Văn Tửu…
…Cực đoan ai bì
Thầy Nguyễn Đăng Mạnh
Nói tướng nói thánh
Thầy Trần Thanh Xuân
Duyên ngẩm duyên ngầm
Thầy Trần Hữu Tá
Chân nho túc nhã
Thầy Nguyễn Khắc Phi…
Vâng, thầy Phi, thầy Khung và thầy Long vẫn được sinh viên các lứa bầu là những nhân vật có dáng nho nhã nhất khoa. Nhận xét này đã từng gây tranh cãi trong đám bạn bè vẫn tự coi là sành sỏi hồi ấy. Tôi nhất quyết, chữ nho nhã không nói được hết thầy Phi. Với thầy Phi, chữ nho nhã phải thêm chữ “dân dã”. Đám phản đối cho rằng, tôi chơi chữ, tôi thích tân kì. Nhưng chúng đâu hiểu được đó vừa là quan niệm của tôi về cái đẹp và cũng là những thực tế tôi biết về thầy Phi. Trong tâm trí tôi hồi ấy ông luôn hiện ra trong dáng còm còm mảnh mảnh trên chiếc phượng hoàng nữ với chiếc mũ lá khá rộng vành (hồi ấy khoa văn đội mũ lá hơi bị nhiều thì phải?) kẽo kẹt đạp đi khắp nơi cùng với đám học trò. Cái tâm dành cho học trò của thầy thế, chẳng chân thành và dân dã là gì. Tôi nghĩ bất cứ sinh viên nào cũng ao ước có một thầy chủ nhiệm như thầy Phi. Nhiều đứa lớp trước đã từng ghen tị với tụi lớp sau khi được biết chuyện ông đã một mình nắng nôi đạp xe lên tận cầu Mai Lĩnh Hà Tây để thăm gia đình và động viên cái Nương, khi con bé vốn có năng lực đó gặp tai bay vạ gió trong cuộc thi tốt nghiệp cử nhân bốn năm và tiếp tục giữ lại lớp đặc biệt năm năm. Giờ Nguyễn Thị Nương đã thành một tiến sĩ và vừa mới được nhận về khoa Văn. Rồi chuyện thầy đạp xe lên tận Thuận Thành Hà Bắc để dự đám cưới tay Kha. Hôm ấy, trời mưa giông còn bay cả phông màn đám cưới. Nay thì Nguyễn Duy Kha cũng đã thành một trưởng phòng khảo thí của Cục Khảo Thí. Rồi ngày khai trương Trung tâm luyện viết chữ đẹp của Mai Thị Đông trên phố Trúc Khê nữa, dù rất bận thầy vẫn sắp xếp để có mặt cổ vũ. Đông chả phải học trò lớp thầy chủ nhiệm đã đành, mà nay cũng đâu phải là người công tác gần gũi, hoàn toàn chỉ là tình thầy nghĩa trò vun xới từ những năm xưa. Nhiệt tình như vậy ở một thầy giáo đại học thời nay chắc càng ngày càng vắng. Có không ít ông thầy khi học trò thành đạt thì dè dặt khẳng định, hà tiện lời khen, thậm chí, còn tìm cách hạ thấp xuống nữa, sợ trò kiêu cũng có mà sợ danh tiếng học trò át mất uy danh của mình cũng có. Trong khi đó, thầy Phi đã hoan hỉ viết những bài chào mừng thành công của học trò, như viết về các tác giả thực sự. Tôi đã đọc những bài ông viết về Phạm Hải Anh, về Nguyễn Thị Bích Hải, tôi nghĩ họ xứng đáng được như vậy. Về sau, đọc Tuyển tập Nguyễn Khắc Phi, tôi thấy những bài viết ấy vẫn được ông tuyển nguyên vẹn vào đó. Điều ấy chứng tỏ ông rất tâm đắc với những bộc lộc và đánh giá chân thành dành cho học trò.
•
Tuy không được ông chủ nhiệm, nhưng tôi cũng đã được ông dành cho những tình cảm mà không phải ai cũng có được may mắn đó. Hồi năm thứ hai, khi học phần Thơ Đường, là dịp đầu tiên tôi được gần gũi ông. Sau khi học được những đặc trưng thi pháp thơ Đường, tôi đã viết một bài tập nhỏ, phân tích chỉ hai câu thơ của Đỗ Phủ: “Cửa son rượu thịt ôi/ Ngoài đường xương chất đống”. Tôi cố viết hết sức bút để xứng đáng với những gì ông vừa truyền thụ cho mình trên lớp. Cuối cùng, điểm tuy không thật cao, chỉ được chín thôi, nhưng tôi đã nâng niu bài viết cho đến tận bây giờ như một kỉ niệm sâu sắc, vì ông đã chấm rất kĩ lưỡng, đã chỉ ra đâu là sở trường, sở đoản trong lối tiếp cận văn chương của thằng sinh viên non choẹt là tôi lúc ấy. Những bài được chấm như thế là sự soi sáng, là sự khích lệ vô cùng quí báu, đôi khi là một cú hích quan trọng trong đường văn chương của một con người. Rồi ông còn khuyến khích tôi nên báo cáo trong câu lạc bộ Văn học Châu Á năm đó. Từ đấy trở đi, tôi được gần ông hơn. Và cũng tự tin lên nhiều hơn.
Đến khi học xong Cao học, khoa Văn giữ tôi lại ngoài này, tôi gặp rắc rối trong việc xin chuyển. Mà nếu không được chuyển ra thì đối với tôi mọi chuyện như là sụp đổ vậy. Vợ con tôi ở ngoài này, đại gia đình tôi ở ngoài này, khoa Văn này là nơi tôi đã gắn bó 6, 7 năm trời, mọi dự định về công việc và sự nghiệp nữa đều gắn với nơi này. Nếu mình không ra được thì rồi đời mình sẽ ra sao? Bài toán cuộc đời mình chắc sẽ bế tắc, không thể giải được mất. Nhất là hồi ấy việc thuyên chuyển khỏi đại học Quy Nhơn là cực kì khó khăn. Ông hiệu trưởng Lê Hoài Nam lại tỏ ra quí tôi và chỉ muốn tôi về lại trong đó làm nòng cốt lâu dài. Tôi đã vô cùng lo lắng và nơm nớp sợ việc lớn của mình khó mà thực hiện được. Chính thầy Phi đã viết thư vào thuyết phục ông Lê Hoài Nam cho tôi được chuyển ra. Có lẽ áp lực tâm lí quá nặng nề, nên khi cầm thư, tuy mừng và đầy hi vọng, nhưng chừng nào chưa được giải quyết, chưa biết kết quả, tôi vẫn không sao trút được nỗi lo đè nặng trong lòng. Cầm thư đến gặp, mà hồi hộp kinh khủng. May sao, ông hiệu trưởng nổi tiếng nguyên tắc ấy vốn là bạn thầy, đọc xong thư của thầy và thư thầy Mạnh nữa, đã thuận tình mà bàn với tổ chức giải quyết cho tôi ra. Không thể nói được cảm giác sung sướng đến thế nào cứ dào dạt lên trong tôi lúc ấy. Tôi còn nhớ, rời phòng hiệu trưởng, tôi đã ra bờ biển Quy Nhơn ngồi rất lâu. Một mình, nhìn những con sóng lang thang trôi dạt trên mặt biển kia, nhìn những lá phi lao gió thốc đi tung toả vô định, nhìn những cánh hải âu chao liệng trên không rồi tha tha thẩn thẩn cuối những chiếc thuyền đánh cá bỏ vắng trên bãi xa kia, mà nghĩ về may mắn của mình. Ngồi từ xế chiều, đến khi bóng đã dài và thẫm lại mới thôi. Về sau, mỗi khi ngoái lại ngày ấy, không lần nào tôi kìm nổi xuýt xoa: nếu không có bức thư giản dị mà đầy nhiệt tình của thầy và thư thầy Mạnh, thì sẽ ra sao! Còn ra sao nữa, chắc là tôi đã mắc kẹt đời mình ở Qui Nhơn, nơi không phải tôi không yêu, nhưng không phù hợp với hoàn cảnh của mình. Vâng, có thể nói, bức thư ấy đã tạo ra một bước ngoặt của đời tôi, dù đến nay tôi vẫn chưa làm được gì thật đáng kể.
•
Với bao thế hệ sinh viên, khoa Văn Sư Phạm I là một mái nhà ấm, một ngôi đền thiêng, mà cái tâm cái tài của những bậc thầy như thế là nền tảng nhân văn, nền móng khoa học bền vững, khiến nó vẫn giữ được vị thế trang trọng, vinh quang đến ngày nay. Nó là niềm tự hào khi được đắp bồi, nó là niềm lo âu khi không được chăm chút. Mỗi khi nghĩ đến sự vững bền của nó, hay lo âu bởi chợt thấy một nguy cơ mai một nào đó, bao giờ tôi cũng nghĩ đến thầy Phi và những bậc thầy mà mình có may mắn được học ở chốn này.
(Hà Nội, thu Mậu Tý - CVS)