bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

Vy

Muốn mua sản phẩm

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN - NGHỆ SĨ ĐIỆN ẢNH CẦM SƠN ĐÃ LÀM VIDEO CLIP RẤT SINH ĐỘNG!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN  NHÀ BÁO ĐẶNG THỦY ĐÃ ĐẶT HÀNG VÀ DÙNG BÀI VIẾT NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

Cám ơn nhà văn Nguyễn Đông Nhật!A DI ĐÀ PHẬT! AN LÀNH CHO CÁC BẠN ĐỌC TRANG NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÔNG NHẬT!CHÚC ÀNH DỒI DÀO SỨC KHỎE VÀ CẢM HỨNG SÁNG TẠO!

 

VŨ NHO 085 589 0003

HOAN HÔ NHÀ THƠ ÁI NHÂN!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 20
Trong ngày: 175
Trong tuần: 1121
Lượt truy cập: 698009

TƯỚNG SÁU SAO

 TƯỚNG “SÁU SAO”


 Bút ký của Bùi Quang Thanh

bui_quang_thanh

NHÀ THƠ BÙI QUANG THANH


Đảo Cát Bà, đêm
mùa thu thật đẹp.
Biển lặng sóng, sao trời,
sao biển, “sao” thành phố
lung linh, chẳng dễ phân
biệt được đâu là những
con tàu đang neo đậu,
đâu là những cao ốc thấp
thoáng trong mây sương.
Biển trời bốn phía rực rỡ,
mơ hồ và kỳ ảo...
Thiếu tướng Nguyễn
Đăng Kính chỉ tay về
phương bắc nói với tôi:
“Phía đó là nơi mình xuất
kích trận đầu. Bắn hạ
được mục tiêu nhưng phải hạ cánh xuống sân bay Nam
Ninh của Trung Quốc vì hết nhiên liệu”. Ông cười, khuôn
mặt đôn hậu với ánh mắt vui lấp lánh bởi ánh đèn trong
vườn hoa phố biển; mái tóc bạc trắng như bông, như mây:
Thiếu tướng - Anh hùng Không quân
Nguyễn Đăng Kính

“Cũng ở phía đó, năm sáu bảy (1967) mình bị bắn rơi trên
vùng trời Hữu Lũng”. Lần đầu trong đời, tôi được ngồi
chuyện trò với một phi công chiến đấu, hơn thế nữa, đó
lại là một vị tướng của Không quân Việt Nam huyền thoại
một thời.
Ông là con trai một du kích quân chống Pháp ở xã
Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định (cùng
làng với đồng chí Trường Chinh). Trong một trận chống
càn, ông cụ bị thương nặng, đạn găm trong mình phải mổ
đi mổ lại nhiều lần, vì vậy gia cảnh rất khó khăn. Nguyễn
Đăng Kính chỉ được theo học trường tư thục 3 năm (1949 -
1952), năm 1959, vừa tròn 18 tuổi, ông vào quân đội thuộc
Quân chủng Phòng không - Không quân. Tự học văn hóa
qua đồng đội và sách vở, sau 2 năm, ông đã có trình độ
tương đương lớp 6/10; rồi ông được tuyển vào Không
quân, được bí mật đưa sang Liên Xô học lái máy bay tiêm
kích. Đây là lớp học lái tiêm kích đầu tiên của Việt Nam,
gồm 40 người do Nguyễn Hồng Nhị làm Đoàn trưởng.
Những ngày tháng đầu tiên phải vật lộn với kiến thức “zê
rô” về ngoại ngữ đã là vất vả, song đến lúc học các môn
toán, lý, lượng giác với ông mới thật là khó khăn. Nhờ
đồng đội và các thầy giáo của Liên Xô tận tình dạy dỗ,
kèm cặp, ông đã vượt qua một cách xuất sắc. Cuối năm
1964, các học viên hoàn thành chương trình đào tạo lái
MiG17 nhận nhiệm vụ, nhưng chỉ 4 tháng sau Nguyễn
Đăng Kính cùng 15 đồng đội nữa lại sang Liên Xô để được
đào tạo lái MiG 21.
Tháng 10.1965, đoàn bay của ông gồm 11 phi công
Việt Nam trở về nước. Lúc này Mỹ đã mở rộng đánh phá
ra miền Bắc. Không quân ta với những chiếc MiG 17 đã
nhiều lần xuất trận; những Trần Hanh, Phạm Ngọc Lan

đã lập chiến công vang dội trên bầu trời Đông Bắc, Khu
4... Ngày 3.4.1966, Nguyễn Hồng Nhị với chiếc MiG 21
xuất trận lần đầu đã tiêu diệt một chiếc không người lái
của giặc Mỹ. Hai ngày sau, Nguyễn Đăng Kính và Vũ
Ngọc Đỉnh được lệnh xuất kích, bắn hạ mục tiêu được
hướng dẫn nhưng vì hết nhiên liệu nên phải hạ cánh ở
Nam Ninh (Trung Quốc). Sự xuất hiện của những chiếc
MiG 21 trên bầu trời miền Bắc làm cho bọn Mỹ cảnh giác
và thận trọng hơn. Chúng thường dùng lực lượng đông,
áp đảo để bao vây, tiêu diệt những tổ bay đơn độc, ít ỏi
của ta. Cũng trong tháng 4.1966, trong một trận đọ cánh
với tụi F4H tinh ranh và đông như ruồi của Mỹ, máy bay
của ông bị trúng đạn địch trên bầu trời Thái Nguyên. Cố
lết về đến Mê Linh thì máy bay không thể điều khiển
được, ông phải nhảy dù. Ngày 2.1.1967, biên đội ông bị
56 chiếc “Con ma” bao vây công kích, cả biên đội bị bắn
rơi nhưng không một ai thương vong. Tháng 4.1967, máy
bay của ông lại bị bắn rơi ở Hữu Lũng, Lạng Sơn; từ sân
bay Đa Phúc, biên đội của ông xuất kích đánh địch trên
vùng trời Nà Sản (Sơn La). Địch vào quá đông nên biên
đội được lệnh rút về vùng an toàn ở Đông Bắc và bị địch
vây đuổi, ông bị dính đạn.
Những năm này là thời kỳ rất khó khăn của Quân
chủng Không quân non trẻ chúng ta. Lực lượng bị tiêu
hao lớn, tổn thất về người lái và phương tiện chiến đấu
xảy ra thường xuyên. Dù ta có bắn rơi được khá nhiều
giặc trời nhưng với những thằng nhà giàu như Mỹ, sự
rơi rụng của chúng vẫn là “gai mồng tơi” trong khi mỗi
chiếc máy bay, mỗi sinh mạng chiến sĩ lái với chúng ta là
không gì bù đắp nổi. Mặt trận ngày càng lan rộng, Thủ đô
Hà Nội và các mục tiêu cần bảo vệ là vô vàn và từng giờ
từng phút. Thiếu máy bay đã đành; đạn đối không, nhiên

liệu bay cũng hết sức hạn chế. Đã vậy, chiến trường của
những con én bạc phải vươn tới các mục tiêu sâu hơn vào
phía nam và xa hơn về phía đông để yểm trợ cho những
con tàu trên biển, những đoàn xe trong đất liền, phối hợp
cùng các cụm pháo phòng không bảo vệ mục tiêu; cũng
có khi phải chủ động phục kích địch từ xa ở mạn Tây Bắc
để bẻ gãy mưu đồ tiến công của chúng từ các sân bay ở
Thái Lan. Tuy vậy mỗi lần xuất kích không quá 30 phút
bởi hạn chế về cơ số nhiên liệu. Sau phút thứ 30 kể từ khi
cất cánh, đồng đội ở mặt đất đã bắt đầu lo lắng trông chờ.
Với MiG 21, mỗi phút bay bình thường ngốn hết 45 lít
xăng; khi tăng tốc chiến đấu tiêu đến 250 lít/phút, vì vậy
mỗi lần xuất kích không được quá 2 - 3 lần tăng ga. Mỗi
máy bay chỉ “đèo” được 3.000 lít xăng, trong đó 500 lít
chứa ở thùng phụ, xáp trận phải nhả thùng phụ ra mà
đánh, vì vậy chỉ một vài phút vờn nhau phung phí là đã
ăn thua sống còn với vấn đề nhiên liệu rồi.
Bốn lần bị địch bắn rơi mà ông vẫn sống, vẫn nguyên
vẹn và chiến đấu ngày càng sung sức. Điều kỳ diệu nào
đã cứu ông để ông cùng những con én bạc đi suốt chiều
dài cuộc chiến và lập nên những chiến công oanh liệt?
Trả lời tôi, vị tướng ngoại ngũ tuần mà dáng vẻ vẫn vạm
vỡ, cường tráng và rất đẹp “lão” ấy mỉm cười: “Lần thứ
tư mình bị một quả tên lửa đối không bắn cụt đuôi. Máy
bay xoay tròn trôn ốc. Mình bị “gia tốc âm” không sao
với tới nút bật dù. Cũng may, phút chốc sau dòng không
khí ở phía lệch đẩy máy bay trở lại và mình thoát chết
trong khoảnh khắc chớp nhoáng ấy”. Rồi ông trầm ngâm:
“Nhiều người giỏi giang hơn mình, xuất trận là thắng
nhưng rồi số phận cũng không buông tha họ. Giữa mênh
mông mây trời, công sự của bọn mình là triệu tấm lòng
hậu phương thương yêu và chung thủy. Dưới cánh bay

là mặt đất quê hương, là đồng bào, đồng đội. Mình cũng
vậy, ngoài những cái tình chung ấy, mình còn có một mối
tình của cô y tá trong đơn vị. Và nữa, niềm vui được lập
công tiêu diệt lũ cướp trời bảo vệ Tổ quốc cứ thôi thúc
mỗi người. Mình đã hạ được 6 chiếc trong chừng ấy năm
chiến đấu. 6 chiếc là số liệu chính thức mà Nhà nước và
quân đội ghi công cho mình. Thực tế còn hơn nữa đấy”.
Tháng 11.1967, Nguyễn Đăng Kính cùng Vũ Ngọc Đỉnh
(sau này được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang)
xuất kích về không phận Lang Chánh (Thanh Hóa) để
chặn đánh chiếc máy bay trinh sát điện tử RB66. Chiếc
máy bay này có nhiệm vụ vừa trinh sát vừa gây nhiễu tích
cực (phát sóng phá hệ thống tín hiệu của ra đa) và nhiễu
tiêu cực (thả sợi bạc, sợi kim loại gây nhiễu làm nhiễu ra
đa). Thằng quý tử này được bọn tiêm kích phản lực hộ
tống rất chặt chẽ. Từ những năm 1966, loại máy bay này
đã mò ra tận Lạng Sơn, Bắc Cạn hoạt động, ta tổ chức bám
nhiều lần nhưng chưa bắn hạ được chiếc nào. Vũ Ngọc
Đỉnh bay số một yểm trợ cho Nguyễn Đăng Kính (số 2)
công kích. Lợi dụng màn mây, hai dũng sĩ xuyên qua đội
hình hộ tống dày đặc và hung hãn của giặc tiêu diệt con
quái vật trong sự hoảng hốt điên loạn của lũ máy bay “vệ
sĩ” Mỹ. Tháng 1.1968, cùng với Đồng Văn Song, ông lại
hạ thêm một con quái thiên loại này. Sau 2 lần bị tiêu diệt,
địch không dám cho RB66 vào sâu trong đất liền quấy rối
nữa, chúng chỉ lảng vảng từ xa, phía Lào hoặc ngoài biển.
Lực lượng phòng không của ta đỡ rất nhiều trong việc sục
sạo địch từ xa.
Thua đau trên các chiến trường và nhận thấy rải ra tất
cả các mục tiêu trên Bắc Việt để đánh phá thì khó lòng
hủy diệt được lực lượng ta, bọn Mỹ chuyển sang chiến
lược “ném bom hạn chế”, tập trung bom đạn vào Khu 4

hòng bóp nghẹt mọi nẻo đường chi viện cho cách mạng
miền Nam. Mật độ chiến tranh ở eo đất hẹp từ vĩ tuyến 20
trở vào vô cùng khốc liệt. Để hỗ trợ mặt đất, hạn chế hoạt
động của không quân và hải quân Mỹ, không quân Việt
Nam được lệnh tiến vào Khu 4. Một cụm 4 sân bay được
hình thành tại Thọ Xuân - Anh Sơn - Vinh - Đồng Hới. Đại
đội bay đêm của Đoàn Sao Đỏ do Đinh Tôn chỉ huy trụ
lại Thọ Xuân và hoạt động trên bầu trời Khu 4 khốc liệt.
Không gian mênh mông là vậy nhưng với những con én
bạc, tầm hoạt động thật là hạn chế: lệch cánh sang đông
là biển, là tầm khống chế của hải quân, không quân Mỹ;
lệch cánh sang tây là biên giới, là núi rừng hiểm trở với
những con mắt cú vọ của không lực Mỹ đang chực sẵn từ
các căn cứ ở Thái Lan. Bay cao thì dễ bị lộ, bay thấp thì địa
hình núi non phức tạp, tầm quan sát hạn chế…
Nhằm khắc phục những khó khăn trên, Đài quan sát
đối không và Chỉ huy hỗ trợ không quân đặt trên núi Đại
Huệ (phía tây thành phố Vinh) để có thể thoát được tầm
ngăn cách của các dãy núi: Cấm, Hồng Lĩnh, Thiên Nhẫn,
Trà Sơn. Sáng ngày 26.1.1968, từ căn cứ Thọ Xuân, Đại đội
phó Nguyễn Đăng Kính lái chiếc MiG 21 mang số hiệu 52
cùng Vũ Xuân Thiều (người sau này đã quả cảm bắn hạ
B52 trong trận Điện Biên Phủ trên không bảo vệ Hà Nội
và được truy tặng Anh hùng Liệt sĩ) bay vào Nghệ An đón
đánh một tốp hai “con ma” của hải quân Mỹ đang từ Hạm
đội 7 vào núi Cấm để tiến công mục tiêu ở Vinh. Bám
được thắt lưng hai thằng giặc trời, ông đặt thằng số 2 vào
vòng ngắm. Thằng giặc như có linh tính, chao đảo liên tù
tì thoát khỏi tầm bắn của ông. Đang đà tăng tốc, ông bám
đuôi chiếc số 1, tiếp cận thật nhanh và bồi liên tiếp hai
quả tên lửa RTC13 điều khiển bằng tia hồng ngoại. “Con
ma” xấu số cháy như đuốc giữa bầu trời quê Bác. Đây là

chiếc thứ 100 của Đoàn Sao Đỏ anh hùng, trước đó chiếc
F105 (chiếc thứ 99 của Đoàn Sao Đỏ) cũng do biên đội
ông và Nguyễn Văn A bắn hạ. Tháng 7 năm đó, Nguyễn
Đăng Kính bắn rơi chiếc máy bay thứ 4 trên bầu trời Ninh
Bình. Đó là một thằng trinh sát không người lái ở tầm
thấp; loại này bọn Mỹ sử dụng để trinh sát ở các trọng
điểm mà chúng cần tư liệu chính xác, kể cả sử dụng ghi
âm; diệt bọn này là mục đích tiêu hủy tư liệu địch đã trinh
sát, vì vậy với một thằng không người lái, tầm ý nghĩa
chiến lược cao hơn, hệ trọng hơn những thằng chỉ biết xả
bằng bom, bằng đạn. Thời kỳ này, góp lửa cùng ngã ba
Đồng Lộc và các trọng điểm miền Trung, ông tiếp tục bắn
rơi một không người lái và một “Thần sấm” nữa. Chiếc
“Thần Sấm” - chiến công thứ 6 của ông rơi ngay trên biển
Thiên Cầm (Cẩm Xuyên) quê tôi, trước khi Hiệp định Pari
(1968) có hiệu lực mấy ngày. Từ cuối 1968 đến 1972, địch
ngừng ném bom đánh phá miền Bắc, đơn vị của ông Kính
chuyển sang bay đêm bám đuổi B52, C130 để bảo vệ các
hoạt động của bộ đội mặt đất. Năm 1972 ông được sang
Liên Xô học ở Học viện Không quân Gagarin và trở thành
một chỉ huy của Đoàn Sao Đỏ.
Tôi tò mò hỏi ông về mối tình với cô y tá nào đó mà
ông vừa chợt nhắc. Ông cho biết cô gái dòng họ Mông ở
Yên Bái ấy, sau này là vợ ông. Khi ông Kính bị địch bắn
rơi ở Mê Linh phải nhảy dù, ông bị chấn thương cột sống
và được điều trị tại Bệnh xá sư đoàn, nơi Mông Thị Lợi
công tác. Họ quen nhau thời kỳ ấy. Đầu năm 1969, Bác
Hồ đến thăm Quân chủng và chúc các phi công “Hãy có
nhiều Cốc hơn nữa”, ông Kính và cả y tá Mông Thị Lợi
cũng được về gặp Bác, họ hiểu nhau rồi thành vợ thành
chồng. Lễ cưới của họ được tổ chức vào một đêm tháng
9.1970, đó là một đám cưới đặc biệt, rất lính không quân.

Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn Đinh Văn Dây vừa giới
thiệu đại biểu xong thì địch đến. Hai họ và đại biểu phải
sơ tán; chú rể và đồng đội mặc vội đồ bay về vị trí chờ
lệnh xuất kích. Khi có lệnh báo yên, tất cả trở lại… cưới
tiếp. Cậu con trai của vị tướng “6 sao” và cô y tá ấy đã
từng tốt nghiệp phi công lái “SU27” và đang theo nghiệp
bố ở hãng hàng không dân dụng.
Vài tháng sau đêm Cát Bà đáng nhớ với vị tướng anh
hùng ấy, tôi được chứng kiến buổi lễ chia tay của Viện
Kiểm sát nhân dân Tối cao tiễn Thiếu tướng Nguyễn Đăng
Kính nghỉ hưu. Oai phong, bệ vệ trong bộ quân phục
cấp tướng với mái tóc trắng như cước, khuôn mặt hồng
hào mà đầy nhân hậu, yêu thương; một tay ôm vai Viện
trưởng Hà Mạnh Trí, tay kia ôm bó hoa tươi, ông không
giấu nổi những giọt nước mắt lưu luyến trước các đồng
nghiệp và đồng đội của mình, cứ để cho nó tuôn tràn trên
đôi má: “Thế là tôi đã hạ cánh thật rồi các đồng chí ạ. Cám
ơn Đảng, cám ơn nhân dân và tất cả đã nâng cánh cho tôi
suốt cuộc đời phục vụ cách mạng. Cám ơn!”.
Hà Nội, 22/12/2004

bia_bui_q._thanh

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)