bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÔNG NHẬT!CHÚC ÀNH DỒI DÀO SỨC KHỎE VÀ CẢM HỨNG SÁNG TẠO!

 

VŨ NHO 085 589 0003

HOAN HÔ NHÀ THƠ ÁI NHÂN!

 

VŨ NHO 085 589 0003

THÔNG TIN THÚ VỊ!CÁM ƠN TÁC GIẢ HÀ ANH!

 

VŨ NHO 085 589 0003

BÀI VIẾT CÔNG PHU QUÁ!CÁM ƠN PGS.TS. NHÀ THƠ PHẠM CÔNG TRỨ!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN CẦM SƠN ĐÃ XỬ LÍ VIDEO CLIP NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

HOAN NGHÊNH NHÀ VĂN, NGHỆ SĨ ĐIỆN ẢNH CẦM SƠN ĐÃ TƯỜNG THUẬT BẰNG HÌNH ẢNH SINH ĐỘNG TRONG VIDEO CLIP NÀY!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 25
Trong ngày: 206
Trong tuần: 997
Lượt truy cập: 632950

BÚT KÍ CỦA BÙI QUANG THANH

ĐẾN HẸN LẠI VỀ
 Bút ký

bui_quang_thanh

             NHÀ VĂN BÙI QUANG THANH


Tôi đang ngồi trước họ, 13 cựu binh trong tổng số
351 chiến sĩ của huyện Cẩm Xuyên nhập ngũ ngày
27.7.1968. Bên cạnh họ, trên chiếu rượu chiều nay còn có
năm bà vợ lính và hai vị khách là tôi và anh bạn viết văn
Phan Cao Toại vừa từ Nha Trang về. Ngô Hồng - chủ nhân
ngôi nhà sum họp này, người trẻ nhất nhưng là người có
thâm niên lính cao nhất trong số họ đã ra tận thị xã Hà
Tĩnh bắt tôi phải về bằng được để vừa làm khách, vừa làm
phó nháy.
Lớp chúng tôi, lớp những người có cái tuổi khai sinh
chia thế kỷ hai mươi làm hai mảnh, lớn lên trong hậu
phương chống Pháp, chưa kịp học xong mặt chữ đã vội
giã từ quê hương cầm súng lên đường đánh Mỹ. Chẳng
biết bạn bè nằm lại trên khắp nẻo chiến trường để trở
thành bất tử may hơn hay những người sót lại sau bom
đạn để mà đau đáu nhớ thương may hơn, nhưng khi đốt
nén hương trước vong linh các liệt sĩ, chẳng mấy ai cầm
nổi nước mắt. Bình minh tuổi trẻ trong ngần những ước
mơ, dự định của các chàng trai, cô gái chân đất chưa kịp
buông dây cho cánh diều của mình bay bổng thì tiếng


lòng đã thôi thúc đón chờ buổi lao vào binh lửa chiến
trường. Những đôi môi chưa biết nói lời yêu, những ánh
mắt chưa tan hết ngu ngơ của tuổi thơ đồng nội. Những
giọt nước mắt nhớ nhà chưa biết lặn vào trong mà nóng
hổi lăn tròn trên những đôi má phúng phính lông tơ. Họ
ra đi từ miền quê nghèo khó nhưng tuyệt đẹp về truyền
thống ông cha, lòng vẫn thầm ước mong sớm được trở về
dưới những mái nhà tranh để xây đời mở nghiệp…
Nắng tháng bảy chói vàng rót xuống khu vườn cây
xanh đầy hoa trái. Cái nóng dai dẳng hàng tháng qua với
những đợt gió Lào không dọa nổi mảnh vườn được bàn
tay người chăm chút, nâng niu. Những gốc bưởi lai sum
suê, quả trĩu cành; những cây roi ngửa tán lá lên trời che
chở cho muôn nghìn nụ hoa, núm quả. Chao ôi! Cũng
ngày này ba mươi năm về trước, tôi đứng dưới hàng tre
cháy nắng gió và khét lẹt khói bom vẫy chào bạn bè lên
đường nhập ngũ. Ba trăm năm mươi mốt chàng trai hồ hởi
ra đi. Ba mươi năm sau, số còn lại chỉ đếm được hơn một
lần số đốt ngón tay trên một bàn tay đầy đặn. Người già
nhất trong số những người có mặt hôm nay là bác Dương,
một nông dân ven biển Liên Hương. Có lẽ cái tiểu đoàn
tân binh năm ấy bác là người anh cả. Nhập ngũ năm 37
tuổi, gia đình bác có sáu anh em ra đi, chỉ duy nhất mình
bác trở về. Anh Nụng từ Cẩm Lĩnh ra, anh mừng rỡ báo
cho mọi người biết: sắp tới đây cây cầu mơ ước của nhân
dân xã anh sẽ nối đôi bờ sông Rác. Sự xa cách bạn bè, làng
xóm sẽ giảm đi nhiều. Cái xã côi cút nằm leo lắt bờ nam
con sông nhỏ, ba bề là núi chắn đồi che, không một con
đường nối với các xã bạn ngoài mấy cánh đò ngang mỏng
manh. Mà núi cũng là núi còi, núi cọc; đất sỏi bạc màu, cây
chẳng nên rừng, đá xám gan trâu. Cuộc sống ở đây như
tách rời sự phát triển đến chóng mặt của xã hội thời mở cửa.



Tận đến bây giờ chưa có điện thắp sáng, chưa có công
trình nước sạch sinh hoạt. Các em học sinh tiểu học, trung
học cơ sở mỗi buổi đi học còn lồng cồng vác theo nào liềm,
quang gánh để khi tan trường tranh thủ cắt thêm gánh
lá, mót thêm bòn củi về giúp gia đình. Anh Nụng khoe:
“Sắp có cả rồi. Cầu tám nhịp đã được hai, điện thì trạm đã
xong, cột đã chôn, chỉ còn thiếu dây, thiếu bóng”.
Anh Đặng Xuân Lộc, thương binh hỏng một mắt quê
ở chợ Mới Cẩm Huy đếm từng người, rót rượu đầy ly,
đoạn anh đứng dậy, giọng xúc động: “Kính mời các vị
khách, các đồng đội cũ, các bà vợ của chúng ta. Đây là
chén rượu gặp mặt của những anh em còn sót lại của
mùa đầu quân cách đây đúng 30 năm ở huyện ta. Theo
con số thống kê của Ban liên lạc tạm thời, đơn vị chúng ta
nhập ngũ ngày ấy có 351 người, trừ 1 đào ngũ trên đường
hành quân vào Nam, hiện còn 18. Về họp mặt hôm nay
có 13. Năm người còn lại đều có lời nhắn đến mừng. Nào!
Mời quý vị nâng chén!”.
Vị rượu quê cay nồng đầu lưỡi và xông lên tận mắt
ngần ấy con người. Những cặp mắt dồn vào nhau, trao
gửi, khơi gợi về dĩ vãng. Ngô Hồng chỉ anh Hải, một
người đàn ông nhỏ thó đen đúa ngồi sát góc chiếu phía
trong: “Lẽ ra chúng ta tổ chức gặp nhau được sớm hơn thì
tốt quá. Như anh Hải đây, nhà quá nghèo, khi chúng tôi
vào thăm không cầm được nước mắt. Người nào đó trong
đoàn đã xuất khẩu: Một túp lều tranh một cái can vàng.
Đúng vậy. Anh chị chỉ đủ vốn mua một cái can nhựa vàng
và 5 lít rượu để chị bán lại kiếm lời. Đồng ruộng Cẩm
Minh bên sông, bên núi, chắc các anh chẳng lạ gì. Anh Hải
từ khi bị thương trong một trận pháo bầy của Mỹ chụp
xuống đội hình hành quân trên đất An Khê, mặc dầu vết

thương khá nặng nhưng ở trại điều dưỡng người ta chỉ kết
luận mất sức 18%, đã trả cho mấy đồng “tiền máu” nên
anh không giữ lại chút giấy tờ gì liên quan đến vết thương.
Anh trở về xó núi hẻo lánh không ai mách bảo việc “kê
khai danh dự” để làm thẻ thương binh. Con 5 đứa đã thất
học mất 3 đứa. Để tương trợ nhau, tôi đề nghị từ nay hàng
năm chúng ta nên có lịch hội ngộ và có kế hoạch thăm
viếng khi bạn bè có đại sự”. Mọi người vỗ tay tán đồng.
Tôi ngồi nghe chuyện họ mà cứ như nghe chuyện của ai:
chuyện anh Lộc bị bỏng vì một quả đạn M72 nổ gần, mặt
mũi cháy đen đến nỗi khi vào bệnh viện tiền phương, các
cô y tá cứ một bác, hai bác. Sau khi bình phục thấy anh
còn trẻ quá, lại đẹp trai mới đấm lưng nhau thùm thụp,
tuy vậy “bác” Lộc phải bỏ mất một con mắt vì trận tử
thương này. Lộc kể: trong 351 người nhập ngũ ngày ấy,
trừ 8 đứa được gọi đi học hạ sĩ quan khi ra đến đất Quỳnh
Lưu, còn lại tập trung về Trung đoàn 12 thuộc Sư 3 quân
khu V, Sư đoàn còn có biệt danh “Sao Vàng”. Đối chọi với
ta trên địa bàn Bình Định - Quảng Ngãi hồi ấy là Sư đoàn
“Mãnh hổ” Pak Chung Hy. Những chàng trai quê non trẻ
chưa được huấn luyện kỹ càng về binh nghiệp, vừa xáp
trận là đụng ngay với sự tàn bạo, ác liệt, tinh nhuệ và hiện
đại của kẻ thù. Biết bao máu đổ để trụ vững, để chiến
thắng… “Chúng tôi tổn thất từng ngày anh ạ. Có những
cái chết thật thương tâm, giờ đã 30 năm cách xa mà nghĩ
đến còn như mới chiều qua, sáng nay vậy”. Anh hỏi tôi
còn nhớ Nguyễn Xuân Long người ở Cẩm Huy không?
Long học lớp 5B hồi còn chung trường huyện. Tôi không
nhớ. Lộc bùi ngùi: “Long ăn trọn một quả cối cá nhân vào
đầu. Đó là một ngày tháng 3 năm 1970, Đại đội 61 thuộc
Tiểu đoàn 6 chúng tôi từ hang đá Bình Tường hành quân
ra đường 19 để đánh chặn giao thông, đến ấp Hoài Sơn


thì đụng bọn “Mãnh hổ” Nam Hàn phục. Ác chiến xảy ra,
rồi bọn tôi cũng đẩy được chúng ra khỏi ấp, làm chủ trận
địa nhưng Long đã hy sinh. Tôi và y tá Tiên tìm được xác
Long ở một bờ ruộng lúa. Cõng Long trên lưng đi tìm nơi
mai táng, cái xác đẫm máu không còn đầu cứ dính chặt
vào lưng. Tôi phải tìm bằng được Long đem về quê anh ạ.
Bao đêm nằm mơ thấy nó. Nếu như bom đạn không làm
tan hai hòn đá mồ côi bên góc ruộng, nhất định tôi tìm
được mộ Long”.
Chủ tịch thị trấn Cẩm Xuyên Nguyễn Văn Phán bảo
tôi: “Thằng Tịnh về chiều qua rồi, hôm nay địa phương
làm lễ rước nó lên rú Hội. Mày về muộn nhưng lát nữa
phải đến thắp hương chào nó”.
Đón chúng tôi tại nhà Hà - em gái Trần Thanh Tịnh
là Trung tá Trần Thanh Hải, kỹ sư hóa học đang công tác
ở Bộ Quốc phòng. Mặt mày Hải còn phờ phạc sau một
tuần vào Bình Định tìm hài cốt của người anh trai. Gặp
những người đồng đội cùng chiến đấu với anh mình ngày
xưa, Hải mừng lắm. Anh kể lại khi vào nghĩa trang liệt
sĩ Bình Tường không thấy có mộ nào ghi tên anh ấy cả.
Lần theo sơ đồ của anh Ngô Hồng chỉ dẫn, các cán bộ địa
phương dẫn Hải và người nhà đến một vườn mít cổ bên
đường 19, tại đây có ba ngôi mộ liệt sĩ. Một trong ba ngôi
ghi: Trần Thanh Tình, Sinh 1938, quê: Cẩm Giang, Cẩm
Xuyên - Hà Tĩnh. Sai tên, sai quê, sai cả năm sinh. Các anh
quay về phòng thương binh huyện tìm trong hồ sơ trích
lục thấy cũng ghi đúng như bia mộ, còn ghi thêm: Khi cần
báo tin cho bố Trần Sơn Tịnh. Thế là rõ rồi. Gia đình ông
Trần Sơn Tịnh vốn gốc thị trấn Cẩm Xuyên, sơ tán sang
Cẩm Quan những năm đầu cuộc chiến tranh phá hoại của
Mỹ. Có thể do tiếng Bình Định phát âm mà người ta ghi

sai “Quan” thành “Giang”. Huyện Cẩm Xuyên không có
xã Cẩm Giang mà chỉ có xã Cẩm Quan - quê hương Anh
hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót. Năm sinh của Tịnh là 1948
cũng dễ dàng nhầm lẫn thành 1938. Ngày nhập ngũ, ngày
hy sinh đúng như giấy báo tử. Sau khi xin phép cơ quan
quản lý nghĩa trang, anh Hải xin được bốc để chuyển về
quê. Ngô Hồng hỏi: “Còn những gì trong mộ?”. “Nói
chung hài cốt còn khá đủ. Có một đôi tất chỉ còn dạng của
sợi ni lông, một dây điện lõi đồng”. “Đúng quá. Tự tay tôi
chôn cất và bỏ cái dây đó vào huyệt. Hồi ấy bọn Nam Hàn
hung ác và xảo quyệt lắm. Chúng thường cài mìn dưới xác
tử sĩ của ta để bẫy đồng đội đến lấy xác. Chúng tôi phải
dùng dây buộc vào tay chân các liệt sĩ kéo động trước, đề
phòng mìn của chúng”. Hồng cho biết có lần trinh sát ta
theo dõi 9 thằng Nam Hàn khệ nệ mang vác gì rất nặng đi
trong mưa đến điểm phục kích, người và hàng trùm kín
ni lông. Lúc quay về cũng đủ cả chín thằng. Khi yên chí
không còn địch mật phục thì anh em mình lại rơi ngay ổ
lót của chín thằng nằm lại. Hóa ra chúng nó cõng nhau để
đánh lừa ta. Chín thằng cõng chín thằng đi rồi chín thằng
quay về, chín thằng nằm lại mật phục. Trần Thanh Tịnh
hy sinh vì một trận đón lõng bằng mìn định hướng của
bọn Pak Chung Hy cùng hai đồng đội nữa. Tôi nhớ lại
thằng bạn người cao, da trắng, mày rậm, thật tươi nhưng
cũng thật hiền những ngày còn đi học. Đường đến trường
phải qua con sông Hội không rộng nhưng rất sâu và đầy
hiểm họa của bom đạn Mỹ vì đây là con đường giao thông
thủy của ta từ Cửa Nhượng nối vào đường mòn Hồ Chí
Minh ở vùng Kẻ Gỗ. Đò ngang không dám chèo ngày,
mỗi sáng tinh mơ, những thằng bạn học tuổi mười lăm,
mười bảy qua sông bằng cách cởi áo quần gói lại cùng
sách vở rồi một tay cầm gói áo quần giơ cao, tay kia bơi

thí mạng, qua được sông rồi cứ tồng ngồng chui vào gốc
bần còn sót lại giữa những bụi cây quốc lá chi chít gai, xỏ
vội quần áo, lại chạy bạt mạng qua vùng trọng điểm thị
trấn, chạy 6 - 7 cây số nữa xuống lán sơ tán ở Cẩm Yên.
Ngày hai tráo như vậy, đi về. Tôi cũng còn nhớ đã có lần
Trần Thanh Hải kể tôi nghe những ngày vất vả của gia
đình anh, của anh Tịnh trước ngày nhập ngũ: nhà sơ tán
sang vùng động (núi) Nhọc xã Cẩm Quan, bố mẹ vốn từ
nghề tiểu thương buôn bán lặt vặt ở chợ Hội, giờ tay trắng
giữa vùng đồi trọc, mẹ yếu hèn bệnh tật, bố mắt bị mờ,
năm anh em đang tuổi ăn học, trâu ruộng không có mà
cày bừa… Mấy đứa lớn buổi đi học, buổi lại ra đồng mót
lúa mót khoai, đi củi, cắt lá sim lá muồng bán kiếm tiền
giúp mẹ, cơn đói triền miên hành hạ gia đình. Có lần máy
bay Mỹ ném bom chìm một con thuyền chở gạo ở bến
Hội, Tịnh cùng thanh niên, dân quân địa phương ra bốc
vớt cứu thuyền, cứu hàng. Đêm sau, một mình anh ra tìm
cá chết bom nơi thuyền chìm thì vớt được một bao gạo
ngâm dưới sông. Tịnh hì hục vác bao gạo đã mủn đang
bốc mùi chua về khoe với mẹ. Bà mẹ giục con mang nộp
cho xã đội, nhưng chưa kịp mang đi thì có người vu cho
anh ăn trộm hàng quốc phòng. Những ngày đó Tịnh rất
buồn và xấu hổ với bạn bè chòm xóm. Buổi tối trước ngày
anh lên đường nhập ngũ, bà mẹ Tịnh chạy sang nhà hàng
xóm vay được một con gà mái già về làm cho các con bữa
cơm chia tay. Quýnh quáng thế nào mà chỉ vài chục bước
chân, khi bà về đến nhà thì con gà đã chết ngoẻo trong
tay. Điềm rủi rồi. Bà nén những giọt nước mắt lo lắng vào
lòng không cho chồng và các con biết. Mãi về sau, khi vật
vã than khóc trong cơn đau đớn khôn cùng của cái tin đứa
con trai đầu lòng hy sinh, bà mới kể lể với vong linh đứa
con ra đi không hề có một tấm ảnh lưu lại cho người thân
tưởng nhớ.

Mấy ngày trước đây, Thượng tá - nghệ sĩ nhiếp ảnh
kiêm phóng viên báo Quân đội nhân dân Trần Hồng về
Hà Tĩnh, anh khoe với tôi: “Bọn tôi về kỷ niệm ba mươi
năm ngày nhập ngũ”. Tôi hỏi: “Anh cũng vào lính hồi
còn ở quê à?”, “Anh còn nhớ chứ? Thời kỳ này của năm
68, bọn Mỹ ném bom hạn chế miền Bắc. Nghĩa là chúng
chỉ hạn chế phạm vi oanh kích, còn mật độ đánh phá lại
tăng lên rất nhiều lần. Hà Tĩnh trở thành trọng điểm của
chúng. Ngã ba Đồng Lộc là một ví dụ. Chúng tôi gồm
sáu chục học sinh cuối lớp mười loại ưu tú của tỉnh được
tuyển thẳng vào học Trường Sĩ quan chính trị để bổ sung
cho mặt trận. Ra trường, một số chuyển sang làm báo như
tôi, như Đại tá Lê Liên... Chẳng hiểu sao mà số phận hầu
hết anh em được ưu ái trong chiến tranh. Ba chục năm
qua, sáu mươi người lăn lộn qua bao điểm chết vậy mà
chỉ sứt mất ba. Hôm nay về đủ 57 người, ai cũng oai ra
phết”. Tôi chạnh lòng liên tưởng hai sự may, rủi xảy ra
vào cùng một thời khắc kia. Hơn ba trăm năm mươi chiến
sĩ bạn bè của tôi ngày ấy ra đi cũng đa phần là học sinh
cuối cấp ba, nhiều người chỉ chờ giấy gọi là vào thẳng
các giảng đường đại học mà chẳng phải qua những kỳ
thi tuyển gắt gao như bây giờ. Vậy mà giờ đây chỉ còn
một nhón người, chưa đủ ngồi chật hai gian nhà gỗ nhỏ
nhoi. Mà đâu chỉ có chừng ấy người trở về trên chừng ấy
kẻ ra đi. Mùa hè năm ấy riêng gì một Ngã ba Đồng Lộc
rung trời. Những yết hầu giao thông thủy bộ như cầu Họ,
cầu Cày, cầu Rác, Khe Giao, Linh Cảm, Đèo Ngang... giặc
Mỹ đã trút xuống bao chết chóc đau thương. Lúc ấy, các
đơn vị phòng không phải di chuyển từng ngày, từng giờ
không theo một quy luật nào để tránh nằm trong tọa độ
của máy bay và pháo hạm Mỹ. Trên những cánh đồng
làng, cả những bãi cỏ chăn trâu của tuổi thơ chúng tôi,

đêm đêm rậm rịch tiếng người kéo pháo di chuyển, đào
công sự, chặt lá ngụy trang... chẳng một người dân nào
ngủ yên giấc trong căn hầm chữ A, chữ Z nhà mình. Trưa
ngày 26 tháng 6 năm 1968, Tiểu đoàn pháo cao xạ Bình -
Hà bị trúng bom tọa độ. Hai mốt chàng trai vĩnh viễn nằm
lại. Thịt xương họ một phần tan vào bụi đất, một phần
được đồng đội, nhân dân gom nhặt nâng niu trong nước
mắt đau thương để đưa về nghĩa trang. Họ mang giọng
nói trăm miền, về đây cùng chúng tôi bảo vệ xóm làng
và những trọng điểm yết hầu của con đường giải phóng.
Tôi cũng còn nhớ rõ, khi tôi băng qua cánh đồng lúa vừa
gieo đến trận địa pháo bị oanh tạc ở cánh đồng Mặt Bù,
những pháo thủ còn sống sót cứ như những bức tượng
đồng vẫn ngồi yên trên mâm pháo, mắt dõi lên bầu trời
xanh vợi vừa tan lớp khói bom. Họ ngồi như không có ai
trên cõi đời này còn sống, mặt sắt lại dưới vành mũ sắt
sơn xanh, như chẳng nghe hàng ngàn tiếng kêu gào than
khóc của nhân dân bốn phía đang lao về phía họ. Bây giờ,
nơi trận địa pháo năm xưa bị trúng bom, một con đường
nhựa xuyên thị trấn băng qua, phố xá đã rậm rì nhà cửa.
Hai mươi mốt liệt sĩ hy sinh ngày ấy từng yên nghỉ trên
đỉnh núi Hội cùng hàng trăm liệt sĩ khác lần lượt chia
tay nhau về với gia đình quê hương. Thay chỗ họ nằm,
những chàng trai quê tôi ra đi và ngã xuống khắp mọi
miền cũng rải rác tìm về. Họ đang đứng sát nhau, thành
hàng, thành lối, thành đội ngũ điệp trùng như ngày họ
lên đường. Và hôm nay, sau ba mươi năm im tiếng súng,
sau những vất vả hạt thóc củ khoai, những chiến binh
còn lại mới có dịp tụ về với nhau, tìm về quá khứ đầy đau
thương và oanh liệt...
***

Gần một năm sau ngày hội ngộ, tôi cùng một người
bạn đồng niên, đồng ngũ với họ tìm về nhà anh thương
binh hỏng một mắt Đặng Xuân Lộc, tôi hỏi chủ nhà: “Anh
vào Bình Định tìm mộ Long có thuận lợi không?”. “Thuận
lắm. Đi về trót lọt, địa phương họ giúp đỡ nhiệt tình. Tội
nghiệp thằng Long thế mà còn son anh ạ”. Trời đất! Chết
mất đầu mà vẫn còn son? Nghĩa là còn hơn nhiều đồng đội
khác chẳng lưu lại được chút cốt nhục gì. “Có chính xác
là mộ Long không anh?”. “Mặc dầu khu vực mộ không
còn như cũ, những viên đá làm mốc bị đào phá nhưng
tự nhiên có một lão nông chỉ cho. Ông bảo rằng sau khi
chúng tôi chôn cất, ngụy trang, bọn Nam Hàn đến đào
lên phơi xác trên mặt ruộng. Nhân dân chôn lại và từ đó
đến nay vẫn hương khói ngay chỗ ấy. Đúng là mộ Long,
không có đầu, trong mộ có một cái ví đựng mỗi một con
tem quân đội, sau con tem có chữ: “Nhớ mãi ngày 3/8”.”
Anh Lộc quay sang tôi: “Đó là ngày chúng tôi rời Cẩm
Xuyên hành quân ra trận”. Tôi hỏi anh: “Mấy ông bạn
người Cẩm Minh, Cẩm Lĩnh giờ sống ra sao?”. Anh Lộc
cười: “Sau lần gặp gỡ ấy, vợ chồng anh Phán, chị Liên
nhận đỡ đầu hai cháu con anh Hải, các cháu đang cố gắng
theo bạn, theo bè. Quê ông Nụng giờ có điện rồi, vui hơn
rồi. Vừa qua xã đã xây dựng một công trình tưởng niệm
các liệt sĩ hắc lắm. Cái xã côi cút ấy lại có nhiều liệt sĩ vào
loại nhất nhì huyện anh ạ. Sắp đến ngày 27.7 rồi, ngày hẹn
hò hội ngộ của chúng tôi, phải kiếm gì để mừng cho quê
ông ấy đổi đời. Anh vào với chúng tôi chứ?”.
Cẩm Xuyên, 8.2007
bia_bui_q._thanh

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)