bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
PHẢN HỒI MỚI

Vy

Muốn mua sản phẩm

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN - NGHỆ SĨ ĐIỆN ẢNH CẦM SƠN ĐÃ LÀM VIDEO CLIP RẤT SINH ĐỘNG!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN  NHÀ BÁO ĐẶNG THỦY ĐÃ ĐẶT HÀNG VÀ DÙNG BÀI VIẾT NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

Cám ơn nhà văn Nguyễn Đông Nhật!A DI ĐÀ PHẬT! AN LÀNH CHO CÁC BẠN ĐỌC TRANG NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÔNG NHẬT!CHÚC ÀNH DỒI DÀO SỨC KHỎE VÀ CẢM HỨNG SÁNG TẠO!

 

VŨ NHO 085 589 0003

HOAN HÔ NHÀ THƠ ÁI NHÂN!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 21
Trong ngày: 79
Trong tuần: 821
Lượt truy cập: 695261

VỀ TUYỂN THƠ DUY KHOÁT

DUY KHOÁT, NHÀ THƠ CỦA DUY CẢM, DUY TÌNH
(Đọc “Tuyển tập Thơ Duy Khoát”, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024)

                               LÊ ANH PHONG

anh_anh_phong

NHÀ GIÁO NHÀ VĂN LÊ ANH PHONG


Xin mở đầu bằng những câu thơ được tác giả treo ngoài bìa tuyển tập: “Đọc thơ
tôi dù ai chê cũng được/ Tôi cứ viết theo giọng điệu riêng mình/ Mong nhẹ bớt
những điều trắc trở/ Cay đắng ngọt bùi trong cõi nhân sinh/ Tôi có thơ giàu thêm
bè bạn/ Nàng thơ tôi là một người tình/ Và năm tháng âm thầm tôi nhặt/ Chút bụi
vàng trong cát lung linh”.
Rất rõ ràng và minh bạch trong phi lộ. Khi đọc hết 213 bài, tôi chợt nghĩ, có thể
thêm một chữ “tình” vào tên của thi tập: “Tuyển tập thơ tình Duy Khoát”.
Tôi nhớ mãi lần đầu gặp anh ở Tràng An Thơ, 88 Hàng Buồm, năm 2011. Sau
khi nghe một nhận xét về thơ, anh thủng thẳng: - Ấy giời, Chẳng ai giống ai, thơ
phải thế chứ. Sao lại cứ xui người nọ theo người kia. Chớ có dại dột mà nghe theo.
Tớ chỉ có thơ tình và thơ tình. Tớ cứ viết theo giọng của mình. Càng viết, tôi càng
nhận ra điều đó. Thơ là “cây đàn muôn điệu”. Thấy một nhà thơ nữ trẻ gọi nhà thơ
Duy Khoát là anh, mình cũng bắt chước. Sau này mới biết hai anh em cách nhau
một thế hệ. Hình như những tác giả chuyên viết thơ tình, thường trẻ hơn so với
tuổi. Nghe nói, anh không chơi với cô nào, với nhà thơ nữ nào nếu “không rút kinh
nghiệm”, cứ “cố tình” gọi anh là chú, là bác. Có lần anh cười nói: - Họ hàng gì mà
chú với cháu. Cứ gọi thơ là anh nhé! Với nụ cười thân thiện, với từ “tớ” và “mình”
thường dùng, anh trở nên gần gũi với mọi người. Nhưng cũng không ưa sự xuồng
sã, thô lậu trong thơ, trong ứng xử. Bản tính lành, anh không bao giờ làm tổn
thương người khác. Có lần đi tham quan ngày nắng, anh đeo kính râm, nhưng tôi
vẫn thấy mắt kính đen không che mặt người hiền. Chất Kinh Bắc và tạng người
như canh hát giao duyên. Sống trầm hậu, khiêm nhường, bao dung và tinh tế, tôi
chưa thấy anh to tiếng bao giờ. Và trong thơ cũng thế, không đại ngôn, không đại
tự sự.
Có thể nói, thời của anh là thời của thơ tình. Mở đầu thi tập là những “kỷ niệm
về nhà thơ Xuân Diệu”, ông hoàng của thơ tình một thời. Đó là sự gặp gỡ, đồng
điệu giữa cá nhân với thời đại trong thơ. Năm 1962, sau khi tốt nghiệp Trung cấp
Nông lâm trung ương, anh về làm biên tập viên Nhà Xuất bản Nông thôn. Đây là

những vần thơ ra đời năm 1963 ở núi rừng Cao Bằng: “Nhớ em tận chốn xa mờ/
Để mình anh với ngẩn ngơ rừng chiều”. Còn đây là chuyến “Thăm bản Lác” năm
2019: “Đêm sao cười nhấp nháy/ Gió thơm mùi phấn thông/ Ghẹo các cô sơn nữ/
Ngực thanh tân phập phồng”. Cách nhau 56 năm, anh “cứ viết theo giọng của
mình”, đi tới mình trên con đường thơ duy cảm, duy tình.
Thơ anh có một khoảng trời của mây trắng. Giữa những năm tháng không quên
1972, bất ngờ trên phố Tràng Tiền, anh gặp lại người con gái dịu dàng xinh đẹp:
“Ôi đất nước những ngày khốc liệt/ Ngắm em cười anh lại thấy bình yên”. Trữ tình
cá nhân trong thơ Duy Khoát thường không đi lạc vào trữ tình chính trị, cái lối nói
khá phổ biến trong thơ tình thế hệ anh, thơ tình thời chiến. Vì thế bản ngã không
phôi pha, không lẫn vào tha nhân, không lạc vào đám đông. Một phẩm chất thơ
trân quý.
Tình yêu là một khái niệm rộng. Tuyên tập chia làm hai phần: Thơ tình và thơ
về gia đình, đất nước. Ranh giới ấy cũng chỉ là tương đối. Tình yêu nam nữ, tình
yêu đôi lứa là âm chủ. Âm hưởng ấy tràn bờ, tạo ra một “thế giới phẳng” trong thơ
anh.
Cũng không nằm ngoài nét chung, cái căn tính thường thấy, thơ tình Duy Khoát
rất nhiều đợi chờ, nỗi nhớ, mơ tưởng… Đó là những tình tự lãng mạn, đằm thắm,
bâng khuâng… từ chân cảm. Nó không sa vào vàng mã trang kim của ngôn tình
thường thấy. Dường như anh không tắt máy bao giờ, chiếc điện thoại hay trái tim
anh đó, “nó cứ mừng run lên” khi “sáng nay em gọi”. Trở về quê, mỗi lần qua
“Ngã tư phố huyện”, ở nơi nhiều ngả rẽ, nhà thơ tìm lại khoảnh khắc của hẹn hò.
Vừa hóm hỉnh, vừa cảm động, bài thơ được viết bên hồ sen ký ức nồng nàn của
tình yêu đôi lứa. Nó như một câu chuyện anh kể lại, nhắc lại với người mình yêu
thương: “Mỗi lần về qua đây/ Anh lại dừng phút giây để nhớ/ Chỗ này năm xưa/
Có cái quán bên hồ sen ngạt ngào hoa nở/ Đêm ấy chúng mình tan vào nhau/ Dưới
trời khuya nồng nàn hơi thở/ Quán bây giờ đã thay bằng một trạm bán xăng/ Treo
tấm biển “Cấm lửa”/ Anh chợt nghĩ/ Mình khác nào cây xăng đêm đó/ Đã cháy
bùng gặp lửa mắt em”. Nếu người cầm bút hời hợt dễ vô tình trôi qua.
Trong thơ tình Duy Khoát như có cái gì dang dở, lỡ làng, có cái gì như ảo ảnh:
“Tôi uống ngọt ngào nước mắt của em/ Cho thấm chất tâm hồn tôi trong đó/ Thấm
vị mặn của cuộc đời dang dở/ Ôi hương nồng cay đắng của tình yêu” (Sau ngày em

lấy chồng), “Ta khờ khạo vừa chạm tay xuống nước/ Đã giật mình sóng động trăng
tan” (Vằng trăng đáy nước)… Nhưng chính cái tình thế ấy, đã làm ánh lên vẻ đẹp
sóng sánh, thao thiết của một người nặng lòng, nặng tình, của một tâm hồn thơ
nhạy cảm, nơi tình yêu cư trú.
Có lần tôi đùa vui: - Bác làm thơ chắc tốn tình lắm nhỉ?
Anh cười: - Nếu sau mỗi bài thơ có một bóng hồng nào đó, thì tớ phải có mấy
trăm người tình ấy nhỉ! Có ai cấm yêu trong mộng tưởng đơn phương đâu!
Thơ tình Duy Khoát thường hiện lên gương mặt đa dạng của thời gian trong
tình yêu: “Chừng nào còn có thể/ Thì sao lại không yêu/ Phiên chợ đời sắp vãn/
Thời gian đâu còn nhiều” (Thời gian đâu còn nhiều), “Đốt lòng anh nỗi nhớ mong/
Vì em hẹn gặp chín giờ sáng mai/ Đêm nay mới thật đêm dài/ Bao giờ cho đến
sáng mai, hả trời?” (Sáng mai)…
Nói đến cảm thức thời gian, không thể không nhắc đến bài thơ “Tờ lịch”: “Bóc
đi một tờ lịch/ Đời ngắn đi một ngày/ Lòng bần thần đưa tiễn/ Xác thời gian trên
tay”. Vượt ra khỏi duy cảm, duy tình, đây là bài thơ của cảm niệm. Đó là cảm xúc
trí tuệ, một trường hợp hiếm gặp trong thơ anh. Bài thơ ngắn 4 câu, sức nặng của ý
niệm và cảm xúc dồn vào câu kết. Nói được cái vô hình trong hiện hữu. Cảm giác
thời gian trong lòng bàn tay. Ngỡ là nắm bắt được, nhưng đó chỉ còn là cái xác vô
hồn: “Lòng bần thần…/ Xác thời gian trên tay”. Đó là những câu thơ của nghiệm
sinh, của vô thường.
Lục bát là thể loại được anh ưa dùng. Nó phù hợp với tiếng nói của cảm xúc,
phù hợp với tạng người, tạng thơ Duy Khoát, nhà thơ của duy cảm, duy tình. Và
góp phần làm nên điệu tâm hồn của một Người Thơ, còn mấy tuổi nữa chín mươi
xuân, mà trái tim thơ vẫn rất tình.
“Suốt mùa cây cứ lặng xanh
Hoa kết trái ẩn mình trong lá biếc
Thơ chưa xong quả đã chín trên cành”
Khương Trung, Tháng Tư – 2024
LÊ ANH PHONG

hoa_sung_1

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)