Văn tế thập loại chúng sinh – Áng văn bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du
Văn tế thập loại chúng sinh
Nguyễn Du
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh…
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về Tây phương.
oOo
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà Cô Hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô Hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn Nguyên Nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô Hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
oOo
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương Thần từ, Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh.
oOo
Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh Độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe Kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng: ”Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật Giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam-mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Bài này còn gọi là "Văn chiêu hồn" hay "Văn tế chiêu hồn".
Nguồn: Văn tế cổ và kim, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1960
LỜI BÌNH CỦA VŨ NHO
Theo quan niệm tâm linh của người Việt, người ta có hai phần là xác và hồn. Khi chết đi, hồn lìa khỏi xác. Xác sau thời gian sẽ phân hủy chỉ còn nắm xương khô. Rồi xương cũng nát trở về với cát bụi. Nhưng hồn sẽ đi đâu? Đó là một câu hỏi mà không dễ gì giải thích. Ngày nay vẫn có những thí nghiệm, những cuốn sách viết về cuộc sống sau cái chết của linh hồn. Đây là một số cuốn tìm thấy ngẫu nhiên trên mạng :
Linh hồn có hay không. Nhà xuất bản Đồng Nai, 2011;
Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh;
How We Die
Phân tích khoa học về chương cuối của đời người
Hãy trở lại với thế kỉ XVIII, thời mà Nguyễn Du viết bài văn tế này để thấy hết giá trị to lớn của nó.
Về thời điểm ra đời bài văn tế, có thuyết nói là sau dịch bệnh rất nhiều người chết. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì cho rằng Nguyễn Du viết bài này trước khi viết Truyện Kiều, khi nhà thơ làm cai bạ Quảng Bình. Từ Điển Văn Học (NXB Thế Giới, 2004, tr. 1972) cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895, của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh.
Dù sao thì bài văn tế cũng thể hiện một trí tưởng tượng phong phú, một tình thương bao la với số phận con người, một lời nhắc nhở sâu sắc với người sống về “cõi tạm” của mỗi người.
Người Việt theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mỗi nhà đều có chỗ trang trọng nhất để hương khói cho các bậc tiền nhân. Được hương khói phụng thờ là một cái phúc của người đã khuất. Trong cuộc sống, người “vô gia cư”, không mái nhà để che nắng mưa là loại người khổ cực nhất trong những người khổ cực. Theo quan niệm của người xưa, khi chết đi, những linh hồn khổ cực nhất là linh hồn lang thang, không có nơi thờ cúng, không được hương khói. Đó là những sinh thể “Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người”. Để tưởng nhớ và giải thoát cho họ, có riêng một ngày là Rằm tháng Bảy để các linh hồn đó tụ tập, nhờ Phật giải thoát để tái sinh về cõi Niết Bàn. Tác giả Nguyễn Văn Huyên, trong cuốn sách viết bằng tiếng Pháp : “Hội hè lễ tết của người Việt” Đỗ Trọng Quang và Trần Đỉnh dịch, Nhà xuất bản Thế Giới, tái bản năm 2020 đã giải thích:
“Cái chết là do hồn vía bỏ đi. Những hồn vía rời khỏi thân thể lúc con người trút hơi thở cuối cùng. Chúng được những hồn do thần linh phái đến mang đi, và từ đấy, tiếp tục sống không phụ thuộc vào thân thể”. Rồi tác giả giải thích phong tục cúng cô hồn rằm tháng Bảy.
Bài “Văn tế thập loại chúng sinh” là được viết và đọc trong lễ cúng cô hồn ở các chùa chiền nơi thời Phật.
Nguyễn Du đã lấy cảnh âm u, buồn rầu của tiết tháng Bảy để hình dung ra nỗi cô đơn, lạnh lẽo, buồn thảm của những linh hồn không nơi tựa nương, hương khói:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh…
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Gọi là “thập loại chúng sinh”, nhưng con số mười chỉ có tính chất tượng trưng cho đủ mọi tầng lớp già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn của con người. Trong bài thơ trường thiên này, Nguyễn Du đã kể ra đến 15 loại chúng sinh là:
1. Những kẻ “tính đường kiêu hãnh” tham danh vọng mà quên mạng sống.
2. Những kẻ giàu sang sống trong “màn loan trướng huệ” tự kiêu, tự mãn về sự giàu có và nhan sắc...
3. Những kẻ làm quan to “mũ cao áo rộng” cầm ngọn bút sinh sát trong tay.
4. Những tướng sĩ “bài binh bố trận” “đem mình vào cướp ấn nguyên nhung” cho bản thân ...
Mười lăm loại người đó, sang hèn, già trẻ, địa vị thấp cao, giàu nghèo vô cùng khác nhau khi sống. Nhưng họ bây giờ, khi đã chết đều bình đẳng, đều đáng thương cảm như nhau. Họ là những linh hồn lang thang, vật vờ:
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương Thần từ, Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nguyễn Du đã thấy họ vô cùng đáng thương như nhau, bình đẳng như nhau, không phân biệt đẳng cấp, giai tầng:
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu!
Tất cả họ đều đáng thương, đáng được Phật giải thoát, Phật phù hộ độ trì, cứu khổ, cứu nạn.
Dựng lại cuộc sống vô cùng khác nhau của các loại chúng sinh, Nguyễn Du khẳng định rằng con người dù thế nào cũng không tránh khỏi cái chết. Chỉ là chết trước, chết sau chứ không ai có thể trường sinh bất tử. Tất cả rồi ai cũng phải chết, cũng phải “kẻ trước người sau” đến bên “cầu Nại Hà”. Cầu Nại Hà là cầu gì? Cầu đó ở nơi nào? Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Đông của Thập Điện (tức mười tầng Địa Ngục). Tất cả những người chết đều phải đi qua cầu này để vào nơi đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Địa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn người chết khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi chết chìm nên có tên gọi là Nại Hà.
Khi nói về cuộc sống của những kẻ còn ở dương thế và những kẻ đó khi đã sang thế giới bên kia, nhà thơ Nguyễn Du đã hình dung ra hai thế gới khác nhau. Điều đặc biệt nhất là tác giả đã nhấn mạnh, có ý cảnh báo con người rằng không nên gây thù chuốc oán, không nên gây ác, không nên tự đắc với vị trí với hoàn cảnh của mình. Bởi cuộc đời là vô thường, là biến cải “vũng nên đồi”.
- Giàu sang càng nặng oán thù
- Ngàn vàng khôn đổi được mình
- Phơi thây trăm họ nên công một người.
- Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
- Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Những điều nhắc nhở trên thiết nghĩ vô cùng cần thiết và vô cùng minh triết vì con người vốn u mê, vốn chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy theo những gì trước mắt.
Vốn tin vào đạo Phật, tin vào tín ngưỡng dân gian, Nguyễn Du đã để hết tình thương yêu của mình cho mọi kiếp người, mọi kiếp chúng sinh. Tinh thần nhân đạo bao trùm trong những vần thơ thống thiết tràn trề sự thương cảm:
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Nếu trong đời, nhà thơ không cứu khổ được cho mọi người thì ông tin rằng những lời văn thống thiết của ông trong dịp Tế thập loại chúng sinh sẽ an ủi những linh hồn lang thang không nơi nương tựa
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật Giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên
Một tinh thần hướng thiện, hướng Phật như thế thật đáng kính phục và trọng nể! Chính điều đó đã làm cho “Văn tế thập loại chúng sinh” tràn đầy tinh thần nhân văn và là một trong những áng thơ bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du./.
Người gửi / điện thoại