bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 085 589 0003

Cám ơn nhà văn Nguyễn Đông Nhật!A DI ĐÀ PHẬT! AN LÀNH CHO CÁC BẠN ĐỌC TRANG NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÔNG NHẬT!CHÚC ÀNH DỒI DÀO SỨC KHỎE VÀ CẢM HỨNG SÁNG TẠO!

 

VŨ NHO 085 589 0003

HOAN HÔ NHÀ THƠ ÁI NHÂN!

 

VŨ NHO 085 589 0003

THÔNG TIN THÚ VỊ!CÁM ƠN TÁC GIẢ HÀ ANH!

 

VŨ NHO 085 589 0003

BÀI VIẾT CÔNG PHU QUÁ!CÁM ƠN PGS.TS. NHÀ THƠ PHẠM CÔNG TRỨ!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN CẦM SƠN ĐÃ XỬ LÍ VIDEO CLIP NÀY!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 29
Trong ngày: 391
Trong tuần: 1364
Lượt truy cập: 637103

VỀ BÀI VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

           Văn tế thập loại chúng sinh – Áng văn bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du

                

                                          Văn tế thập loại chúng sinh

                                                    Nguyễn Du

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…

Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Dịp đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Có khôn thiêng phảng phất u minh…

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát

Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ bi

Giải oan cứu khổ độ về Tây phương.

oOo

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh

Chí những lăm cất gámh non sông

Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở

Khôn đem mình làm đứa thất phu

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng xương khô rụng rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà Cô Hồn biết bao giờ cho tan.

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói

Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo một đêm một dài.

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầy

Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàng khôn đổi được mình

Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước

Biết lấy ai bát nước nén nhang?

Cô Hồn thất thểu dọc ngang

Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh?

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Đổi mình vào cướp ấn Nguyên Nhung

Gió mưa sấm sét đùng đùng

Phơi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc

Bãi sa trường thịt nát máu rơi

Mênh mông góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

Khí âm huyền mờ mịt trước sau

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà không kẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm

Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm

Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy

Dẫn mình vào thành thị lân la

Mấy thu lìa cửa lìa nhà

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

Anh em thiên hạ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúc

Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

Cô Hồn nhờ gửi tha phương

Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,

Cánh buồm mây chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòng

Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán

Đòn gánh tre chín dạn hai vai

Gặp cơn mưa nắng giữa trời

Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính

Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan

Nước khe cơm vắt gian nan

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rác

Phận đã đành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa

Ngẩn ngơ khi trở về già

Ai chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa

Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh

Nắm xương chôn rấp góc thành

Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế xót xa

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối

Cũng có người sẩy cối sa cây

Có người leo giếng đứt dây

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quái

Người thì sa nanh sói ngà voi

Có người hay đẻ không nuôi

Có người sa sẩy có người khốn thương.

oOo

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

Hoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là điếm cỏ bóng cây

Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương Thần từ, Phật tự

Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không

Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre

Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh.

oOo

Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh Độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại

Chuyển pháp luân tam giới thập phương

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương

Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nào?

Gái trai già trẻ đều vào nghe Kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng: ”Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật Giáo

Của có khi bát cháo nén nhang

Gọi là manh áo thoi vàng

Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ

Phép thiêng biến ít thành nhiều

Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ

Chớ ngại rằng có có không không.

Nam-mô chư Phật, Pháp, Tăng

Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

         Bài này còn gọi là "Văn chiêu hồn" hay "Văn tế chiêu hồn".

Nguồn: Văn tế cổ và kim, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1960

LỜI BÌNH CỦA VŨ NHO

 

          Theo quan niệm tâm linh của người Việt, người ta có hai phần là xác và hồn. Khi chết đi, hồn lìa khỏi xác. Xác sau thời gian sẽ phân hủy chỉ còn nắm xương khô. Rồi xương cũng nát trở về với cát bụi. Nhưng hồn sẽ đi đâu? Đó là một câu hỏi mà không dễ gì giải thích. Ngày nay vẫn có những thí nghiệm, những cuốn sách viết về cuộc sống sau cái chết của  linh hồn. Đây là một số cuốn tìm thấy ngẫu nhiên trên mạng :

  1. Richard Baron: Hành trình tới các cõi bên kia cái chết, Liên Hoa soạn dịch, nxb Tôn Giáo, 2016;
  2. Raymond Moody, MD & Paul Perry Chuyển tiếp cuộc đời Bí mật sự sống sau cái chết, Nhà xuất bản Thời Đại;
  3. Agatha Christie Tận cùng là cái chết, Nhà xuất bản Trẻ, tái bản 2019;
  4. Jefferey long, M.D. Paul Perry Giải mã tâm linh Sự sống sau cái chết

Linh hồn có hay không.  Nhà xuất bản Đồng Nai, 2011;

  1. Nguyên Phong phóng tác Hoa sen trên tuyết  Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh;
  2. Nguyên Phong Trở về từ cõi sáng Những trải nghiệm quý giá về cuộc sống sau cái chết, Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh;
  3. Nguyên Phong Muôn kiếp nhân sinh  Many livies many times

          Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh;

  1. Sherwin B. Nuland

    How We Die

Phân tích khoa học về chương cuối của đời người

          Hãy trở lại với thế kỉ XVIII, thời mà Nguyễn Du viết bài văn tế này để thấy hết giá trị to lớn của nó.

          Về thời điểm ra đời bài văn tế, có thuyết nói là sau dịch bệnh  rất nhiều người chết. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì cho rằng Nguyễn Du viết bài này trước khi viết Truyện Kiều, khi nhà thơ làm cai bạ Quảng Bình. Từ Điển Văn Học (NXB Thế Giới, 2004, tr. 1972) cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895, của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh.

             Dù sao thì bài văn tế cũng thể hiện một trí tưởng tượng phong phú, một tình thương bao la với số phận con người, một lời nhắc nhở sâu sắc với người sống về “cõi tạm” của mỗi người.

             Người Việt theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mỗi nhà đều có chỗ trang trọng nhất để hương khói cho các bậc tiền nhân.  Được hương khói phụng thờ là một cái phúc của người đã khuất. Trong cuộc sống, người “vô gia cư”, không mái nhà để che nắng mưa là loại người khổ cực nhất trong những người khổ cực. Theo quan niệm của người xưa, khi chết  đi,  những linh hồn khổ cực nhất là linh hồn lang thang, không có nơi thờ cúng, không được hương khói.  Đó là những  sinh thể “Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người”. Để tưởng nhớ và giải thoát cho họ, có riêng một ngày là Rằm tháng Bảy để các linh hồn đó tụ tập, nhờ Phật giải thoát để tái sinh về cõi Niết Bàn. Tác giả Nguyễn Văn Huyên, trong cuốn sách viết bằng tiếng Pháp : “Hội hè lễ tết của người ViệtĐỗ Trọng Quang và Trần Đỉnh dịch,  Nhà xuất bản Thế Giới, tái bản năm 2020 đã giải thích:

Cái chết là do hồn vía bỏ đi. Những hồn vía rời khỏi thân thể lúc con người trút hơi thở cuối cùng. Chúng được những hồn do thần linh phái đến mang đi, và từ đấy, tiếp tục sống không phụ thuộc vào thân thể”. Rồi  tác giả  giải thích phong tục cúng cô hồn rằm tháng Bảy.

 Bài “Văn tế thập loại chúng sinh” là được viết và đọc trong lễ cúng cô hồn  ở các chùa chiền nơi thời Phật.

Nguyễn Du đã lấy cảnh âm u, buồn rầu của tiết tháng Bảy để hình dung ra nỗi cô đơn, lạnh lẽo, buồn thảm của những linh hồn không nơi tựa nương, hương khói:

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…

Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Dịp đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Có khôn thiêng phảng phất u minh…

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Gọi là “thập loại chúng sinh”, nhưng con số mười chỉ có tính chất tượng trưng cho đủ mọi tầng lớp  già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn của con người. Trong bài thơ trường thiên này, Nguyễn Du đã kể ra đến 15 loại chúng sinh là:
1. Những kẻ “tính đường kiêu hãnh” tham danh vọng mà quên mạng sống.
2. Những kẻ giàu sang sống trong “màn loan trướng huệ” tự kiêu, tự mãn về  sự giàu có và nhan sắc...
3. Những kẻ làm quan to “mũ cao áo rộng” cầm ngọn bút sinh sát trong tay.
4. Những tướng sĩ “bài binh bố trận” “đem mình vào cướp ấn nguyên nhung”  cho bản thân ...

  1. Những kẻ tính đường trí phú bôn ba mong được giàu sang...
    6. Những kẻ “rắp cầu chữ quý” nhưng bất thành.
    7. Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gío hiểm nguy bị tai nạn bất ngờ.
    8. Những kẻ buôn đường bộ nghèo “Đòn gánh tre chín dạn hai vai”
    9. Những kẻ phải đi lính “Buổi chiến trận mạng người như rác”
    10. Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào “buôn nguyệt bán hoa” như  trong Truện Kiều : “Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng
    11. Những  kẻ hành khất “Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan
    12. Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên “Nắm xương chôn rấp góc thành
    13. Những kẻ  tiểu nhi tấm bé sớm lìa bỏ mẹ cha “U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng”.
    14.  Những kẻ chết vì các loại  tai nạn thuỷ, hoả,  leo cây, ác thú...
  2. Những kẻ hữu sinh vô dưỡng, sa sẩy, khốn thương.

Mười lăm loại người đó, sang hèn, già trẻ, địa vị thấp cao, giàu nghèo vô cùng khác nhau khi sống. Nhưng họ bây giờ, khi đã chết đều bình đẳng, đều đáng thương cảm như nhau. Họ là những linh hồn lang thang, vật vờ:

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

Hoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là điếm cỏ bóng cây

Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương Thần từ, Phật tự

Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không

Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre

Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nguyễn Du đã thấy họ vô cùng đáng thương như nhau, bình đẳng như nhau, không phân biệt đẳng cấp, giai tầng:

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu!

Tất cả họ đều đáng thương, đáng được Phật giải thoát, Phật phù hộ độ trì, cứu khổ, cứu nạn.

          Dựng lại cuộc sống vô cùng khác nhau của các loại chúng sinh, Nguyễn Du khẳng định rằng con người dù thế nào cũng không tránh khỏi cái chết. Chỉ là chết trước, chết sau chứ không ai có thể trường sinh bất tử. Tất cả rồi ai cũng phải chết, cũng phải “kẻ trước người sau” đến bên “cầu Nại Hà”. Cầu Nại Hà là  cầu gì? Cầu đó ở nơi nào? Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Đông của Thập Điện (tức mười tầng Địa Ngục). Tất cả những người chết đều phải đi qua cầu này để vào nơi đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Địa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn  người chết khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi  chết chìm nên có tên  gọi là Nại Hà.

          Khi nói về cuộc sống của những kẻ còn ở dương thế và những kẻ đó khi đã sang  thế giới bên kia, nhà thơ Nguyễn Du đã hình dung  ra hai thế gới khác nhau. Điều đặc biệt nhất là tác giả đã nhấn mạnh, có ý cảnh báo con người rằng không nên gây thù chuốc oán, không nên gây ác, không nên tự đắc với vị trí với hoàn cảnh của mình. Bởi cuộc đời là vô thường, là biến cải “vũng nên đồi”.

                                           -  Giàu sang càng nặng oán thù

     - Ngàn vàng khôn đổi được mình

                  - Phơi thây trăm họ nên công một người.

- Ruột rà không kẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

- Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi.

Những điều nhắc nhở trên thiết nghĩ vô cùng cần thiết và vô cùng minh triết  vì con người vốn u mê, vốn chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy theo những gì trước mắt.

           Vốn tin vào đạo Phật, tin vào tín ngưỡng dân gian, Nguyễn Du đã để hết tình thương yêu của mình cho mọi kiếp người, mọi kiếp chúng sinh.  Tinh thần nhân đạo bao trùm trong những vần thơ thống thiết tràn trề sự thương cảm:

  • Thương thay thập loại chúng sinh
  • Thương thay chân yếu tay mềm
  • Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
  • Đau đớn thay phận đàn bà,

  Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

  • Thương thay cũng một kiếp người

Nếu trong đời, nhà thơ không cứu khổ được cho mọi người thì ông tin rằng những lời văn thống thiết của ông trong dịp  Tế thập loại chúng sinh sẽ an ủi những linh hồn lang thang không nơi nương tựa

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật Giáo

Của có khi bát cháo nén nhang

Gọi là manh áo thoi vàng

                                      Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên

Một tinh thần hướng thiện, hướng Phật như thế thật đáng kính phục và trọng nể! Chính điều đó đã làm cho “Văn tế thập loại chúng sinh” tràn  đầy tinh thần nhân văn và là một trong những áng thơ bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du./.

 

 

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)