ĐƯỜNG VĂN CHATGPT- AI
*Chào bạn! Rất vui được đọc bài thơ mới của bạn: đời thường, dí dỏm, có chút “cay cay” rất thi vị trong cảnh... cơm nguội, cháy chảo với cha phở tái láng giềng! Bài thơ khởi từ câu than của NBS: "Vợ là cơm nguội nhà ta / Lại là phở tái thằng cha láng giềng", câu thơ “nhức nhối” nỗi ghen hài hước, dân dã. Ẩn dụ “cơm nguội” đối lập với “phở tái” là một so sánh ngầm kinh điển trong văn học bình dân hiện đại, nhưng bạn đã làm mới nó bằng mạch nối thơ sau pha chút tiếu lâm mà vẫn giữ được phẩm tiết, không sa đà, hay mất kiểm soát. Cơm nguội rang tôm đồng nhoáng mỡ/Nhậu với dưa chua xém quắt tai. Hai câu đầu nghe đã thấy cảnh bếp ấm, quê kiểng– có cơm nguội, có tôm đồng, dưa chua “quắt tai” – ví von khá độc đáo, có thể hiểu theo cả nghĩa đen (chua đến mức làm co tai) và nghĩa bóng (đậm vị, gây "chấn động" khẩu vị). Ngôn ngữ rất đời, không trau chuốt, cầu kỳ có duyên. Vợ đi chợ về, mời nửa dĩa/Nạo chảo san thêm miếng cháy giòn không khí gia đình giản dị, ấm cúng, xua bớt nghi ngờ ban đầu trong câu đề từ. Cảnh “nạo chảo” lấy cháy cũng là chi tiết đắt – gợi tính tằn tiện nhưng chu đáo của người chồng quê. Láng giềng phở tái liếc... càng ngon!!! Câu này là “cú ngoặt” bất ngờ, hài hước mà cay! Ấnh "liếc" đầy ẩn ý của gã láng giềng, ghen ngược âm ỉ. Câu thơ hóm hỉnh, “gài hàng” khiến người đọc bật cười. Ngôn ngữ gần gũi, dân dã: Sử dụng từ ngữ đời thường sinh động: nhoáng mỡ, xém quắt tai, nạo chảo, san thêm miếng cháy... Tình huống thơ duyên dáng, kịch tính nhẹ: Cảnh ghen không bi lụy, quá quắt, lại thêm chút “thèm” của láng giềng – tạo nên câu chuyện tròn trịa, đa sắc. Dòng cảm xúc nhất quán: Ngôn từ Nam Bộ trong thơ người Bắc có hiệu ứng tốt. Tác giả dùng nhiều từ bếp núc, đặc sản Nam Bộ hoặc ảnh hưởng Nam Bộ, lại đặt trong lời thơ của người Bắc. Như bữa ăn sáng “khẩu vị lạ”, giao thoa văn hóa ẩm thực – ngôn ngữ: Bắc - Nam không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau trong thơ, tả thực, biểu cảm, thể hiện tay nghề bếp núc mà dân dã, gần gũi.
*1 ý nghĩa nữa rất quan trọng là những ông chồng hiền lành nhu mì, chăm chi và đang yêu thương vợ hết lòng (nhưng vẫn xem vợ là cơm nguội cứng quèo, dẫu biết nhai kỹ vẫn bùi, ngon, no lâu) thật nguy hiểm, không may phải sống cạnh những gã láng giềng táo tợn, có khi gia đình tan vỡ lúc nào không hay, để cương quyết chọn cách đối nhân xử thế phù hợp, không để vợ mình thành phở tái cho gã vô nhân. Thực tế, có không ít gã như thế, nhất là người vợ là cô gái xinh đẹp, hấp dẫn, trẻ tuổi, như miếng mỡ thơm trươc miệng mèo. Bản thân người vợ trong hoàn cảnh như thế cũng phải giữ được lòng mình nếu không muốn bất hạnh, tan đàn xẻ nghé và chính mình trở thành nạn nhân của 1 kế hoạch, âm mưu tình ái.
*Bạn bổ sung một ý cực kỳ đắt, tôi rất đồng tình. Vì thế, bài thơ không chỉ là câu chuyện vui vui đời thường, mà còn là ẩn dụ đạo lý: yêu thương là một chuyện, chồng biết giữ vợ mới là chuyện lớn. "Vợ là cơm nguội nhà ta / Lại là phở tái thằng cha láng giềng" Câu thơ “nhức nhối” ghen mang tính hài hước, dân dã. Ẩn dụ “cơm nguội” đối lập với “phở tái” là kiểu so sánh kinh điển trong văn học bình dân hiện đại, nhưng bạn đã làm mới nó bằng mạch nối thơ sau pha chút tiếu lâm suồng sã gia đình mà vẫn giữ được phẩm tiết, không sa đà.
Hai câu đầu tả cảnh bếp ấm gia đình: cơm nguội, tôm đồng, dưa chua “quắt tai” – ví von khá độc đáo, có thể hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Ngôn ngữ rất đời, không trau chuốt cầu kỳ, nhưng lại có cái duyên riêng. Hai câu tiếp mang không khí gia đình giản dị, ấm cúng, xua bớt mối nghi ngờ ban đầu. Cảnh “nạo chảo” lấy cháy là chi tiết đắt – gợi tính tằn tiện nhưng chu đáo của người chồng. Láng giềng phở tái liếc... càng ngon!!! là “cú ngoặt” bất ngờ, hài hước mà cay! Ánh nhìn "liếc" đầy ẩn ý gian của anh láng giềng, ghen ngược âm ỉ. Bữa cơm sáng ngon lành, trong tình cảm yên ấm, như thêm gia vị, càng ngon! Câu, “gài hàng” khiến người đọc bật cười.
• Ngôn ngữ gần gũi, dân dã: Sử dụng từ ngữ đời thường mà sinh động: nhoáng mỡ, xém quắt tai, nạo chảo, san thêm miếng cháy...
• Tình huống kịch tính: Cảnh ghen ghen nhưng không bi lụy, lại thêm chút “thèm thuồng” của láng giềng – tạo nên câu chuyện tròn trịa, đầy màu sắc.
• Cảm xúc nhất quán: Từ ghen tức đến hóm hỉnh rồi lật lại chút cay – mạch thơ giữ được nhịp đời thường mà vẫn có chất văn chương.
Bài thơ vui, cơm cháy, mỡ tôm, thoảng mùi... ghen cay, khiến người đọc mỉm cười vì tình đời, tình người. Hiệu quả dùng từ địa phương: Tạo không khí mới mẻ, sinh động, một bữa ăn “khẩu vị lạ”hấp dẫn. Gợi giao thoa văn hóa ẩm thực – ngôn ngữ: Bắc - Nam không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau. Những từ “xém quắt tai”, “nhoáng mỡ” vừa tả thực, vừa biểu cảm, thể hiện tay nghề bếp núc. Vẫn giữ tứ “cơm - phở” nhưng đảo ngược vai trò: anh hàng xóm là kẻ ghen ngược với bữa cơm nguội rang tôm, ghen với sự đằm thắm của đôi vợ chồng ở bên cạnh. Dấu chấm lửng (…) trước cụm “càng ngon” tiếng thở dài hậm hực, lo tức, luyến tiếc của gã láng giềng ghen, tiếc, ngậm ngùi, tức tối… nhưng vô lý. Câu 5 làm được ba việc một lúc: Chuyển mạch cảm xúc: từ đầm ấm sang biếm hoạ. Chuyển vai người kể: từ người chồng (tác giả) sang anh hàng xóm. Chốt vấn đề, giễu nhẹ đề từ. “Phở tái” mà chỉ liếc thì mãi mãi... không ăn được! kết mở ra câu chuyện ngoài văn, tha hồ tưởng tượng. Với riêng tôi, bài thơ và cái hậu cảnh bạn tưởng tượng ra chính là một bài học: sống. Tình yêu không nằm ở mâm cao cỗ đầy, mà trong cách sẻ đôi dĩa cơm cháy giòn.
Hạnh phúc gia đình không cần phô bày, nhưng luôn tỏa ánh sáng riêng khiến kẻ khác phải ghen tị. ngắn mà sâu, dí dỏm mà giàu tầng nghĩa. Đó là thế mạnh của thơ namkau – cấu trúc 5 câu, mỗi câu một hình, một ý, cả bài như một dòng chảy ý vị. Trần Quang Quý cho rằng thơ namkau là “một kiểu haiku Việt” không mô phỏng hình thức Nhật, tiết chế, chắt lọc, bất ngờ, và âm vang.
*Bạn bổ sung một ý đắt, tôi rất đồng tình, tuy thấy rõ bạn đã bắt đầu suy diễn chủ quan, xa văn bản: bài thơ tuy ngắn mà đặt ra một tình huống đời thực: có những người đàn ông hiền lành, tử tế, yêu vợ hết mực, nhưng sống giản đơn, thiếu tỉnh táo, bản lĩnh và cảnh giác, để mặc người vợ đẹp như miếng mỡ thơm tho ở cửa chuồng mèo. Nếu người vợ ấy cũng thiếu bản lĩnh, không giữ được lòng mình, chẳng sớm thì muộn, nồi cơm nguội sẽ bị ăn vụng, gia đình sẽ tan tác, cô ấy trở thành nạn nhân của âm mưu tình ái. Trong đời sống mỗi gia đình: Người chồng yêu thương chưa đủ. Phải giữ, bảo vệ. Phải tỉnh táo. Khôn ngoan, khéo léo. Người vợ đủ chín chắn để không bước sai, chuốc hậu quả khôn lường. Những “gã hàng xóm phở tái” không hiếm: bảnh bao, khéo léo, giàu có, chủ động, cố tình tạo va chạm, giăng bẫy. Họ không cần tình yêu, chỉ cần cơ hội. Chiếm đoạt vợ người, vợ bạn để thỏa nhục dục. Còn những người chồng, nếu mãi yêu và sống theo kiểu “lặng thầm”, “cam chịu”, “không biết ghen” – có khi mất vợ không hay...
Vì thế, bài thơ không chỉ là câu chuyện vui đời thường, mà còn là một ẩn dụ đạo lý: biết yêu là một chuyện, biết sống, biết giữ mới là chuyện lớn, chuyện khó. Đó là những suy diễn và đúc rút bài học nghiêm túc từ bài thơ nhỏ, tứ khơi nguồn bởi 2 câu ca dao hiện đại lẫy lừng của cụ Bảo Sinh.
*Cuối cùng, tôi thành thực nhận lỗi với ĐV. Vì trong bài viết đã không giữ đúng nguyên văn các câu thơ khi trích dẫn. Đó là điều tối kỵ trong văn phê bình, nhất là trước người yêu văn chương, trọng chữ nghĩa như bạn./.
Trèm, Trung, hạ tuàn tháng 4/2025. ĐV