bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 0855890003

CÁM ƠN ANH ĐỨC BÌNH CỘNG TÁC!CHÚC ANH VUI KHỎE!

 

ĐỨC BÌNH

Xin cám ơn BAN BT trang TÁC PHẨM VÀ BẠN ĐỌC !

 

VŨ NHO 085 589 0003

Tôi không xem chương trình VUA TIẾNG VIỆT. Cứ theo những gì bác Đinh Y Văn tường thuật thì đích thị là TRÒ CHƠI Đoán từ. Người nhìn từ trong Từ Điển, nói "chữ" đầu của từ, rồi nói "chữ" sau. Người kia...

 

Đinh Y Văn

Trân trọng cảm ơn Tổng biên tập đã dành sự quan tâm đến bố con cụ Đinh Y Văn!

 

Đinh Y Văn

Xin có lời thưa lại, hình như cụ ĐYV bị quy oan là “lơ mơ” ?! Tên chính thức vòng 2 chương trình Vua tiếng Việt là GIẢI NGHĨA, không phải là ĐOÁN TỪ bác ạ.

 

vũ nho 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ BÁO, NHÀ NGHIÊN CỨU NGHIÊM THỊ HẰNG!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 72
Trong ngày: 148
Trong tuần: 989
Lượt truy cập: 773337

TRẦN THỊ TRÂM GIỚI THIỆU "THUYỀN THƠ"

ĐẶC SẮC THƠ CỦA NGƯỜI THƠ THƯỜNG DÂN
PGS -TS - Nhà văn Trần Thị Trâm

 tran_thi_tram

Đọc “Thuyền Thơ”của  Thường Dân (NXb Hội Nhà Văn, 2023),  trong một
hệ thống, ta thấy:  tác giả là một con người thật độc đáo khác đời. Còn thơ ông
mang một nét đặc sắc riêng:  vừa lãng mạn bay bổng vừa hàm ngậm những triết lý
nhân sinh sâu sắc với một cái tôi cô đơn có phần thoát tục.  
1.1. Thường Dân – một người thơ độc đáo, khác đời 
 
Thường Dân tự nhận mình là thằng khờ cuối cùng của thế kỷ hai mươi (Lời
chưa nói) và qua lời tự bạch của thi nhân thì cái  sự  dại khờ, cái nết dở dở ương
ương  không giống ai của ông đã có sẵn trong con người sinh học và tiếp tục phát
triển do đã từng  trải qua một  cú sốc văn hóa và biết bao nhiêu buồn vui, ấm lạnh 
của cuộc đời. Vì thế, đã tạo nên ở tác giả cái tính nết nhiều phần lập dị: 

“Mang khối thuốc nổ trong đầu
Và một trái tim luôn luôn bốc lửa…
Tính nết tôi dở dở ương ương
Cây đời thẳng tôi đâm ngang cành bứa
(Vợ tôi)

Nên sau khi hoàn thành trách nhiệm với gia đình, xã hội, Thường Dân quyết 
tìm cách  mở nắp chiếc soupape (van )để giải  tỏa  khối thuốc nổ, để  giải stress,
giải  sự bức bối,  tự  giải phóng mình. Và người đàn ông ấy đã  học theo các nhà

24

Nho  tài tử thời trung đại: Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Khuyến…  lánh đục về trong. Để rồi, có một hành xử rất  khác đời:  bỏ lại 
vợ con, bỏ  lại phố thị ồn ào, bỏ cả cái tên khai sinh Phạm Thành Ý… lặng lẽ  về
làng  sống  một mình,  làm một gã  Thường Dân  (Trẻ đi đất khách làm quan/ Già
về với ruộng với làng làm dân - Về làng) để được tự do hòa nhập  vào thiên nhiên, 
làm một cuộc hành hương đi tìm lại chính mình, tìm lại  những cái đẹp  đã bị đánh
mất:

Làm trai cho đáng nên trai
Đắm mình trong những đền đài thiên nhiên 
(Làm trai)
Ngẫm trong trời đất giao hòa
Nhâm nhi từng giọt để mà còn nhau
(Cà phê muộn)

 Hình như, sau hai phần ba thế kỷ trải nghiệm, ông đã ngộ ra rằng, đô thị với
nhịp độ sống gấp là nơi giao lưu hội nhập và tiếp nhận cái mới của nền văn minh
hiện đại. Còn làng quê dấu yêu là nơi lưu giữ bao trầm tích văn hóa truyền thống
ngàn đời. Đó chính là những cốt, những mã, những vân văn hóa làm nên tấm thẻ
căn cước để nhận dạng từng dân tộc:
Nhà quê đâu chỉ là nhà
Mồ hôi nước mắt ông bà Tổ tiên
(Nhà quê) 
Mỗi nấm cỏ một con người
Nối xa xưa với muôn đời mai sau
Lắng nghe từ đất thẳm sâu
Lời ông cha nói trên màu cỏ xanh
(với cỏ)

Nên ông đã lựa chọn về quê nhà để được sống chậm, sống nhàn theo phong
thái ung dung tự tại của  các bậc tao nhân mặc khách thuở nào : 

Thảnh thơi nằm trên mui
Thuốc rít liền mấy hơi
Mắt đong đầy trăng sáng
Ngực uống no gió trời 

(Đêm ngược thuyền bên sông Trà Lý).  

Vẫn biết, cuộc sống là nghệ thuật lựa chọn, nhưng giữa thời đại 4.0, một cán
bộ hưu trí đang có cuộc sống yên ấm lại  giã từ Thủ đô về làng sống ẩn dật thì quả
thật khác người. Song xem ra cách nghĩ, cách hành xử của kẻ ẩn sĩ thời nay ấy  còn 
kỳ  hơn khi  gã dồn hết  tâm lực,  vật lực  đóng  một con thuyền gọi là Thuyền  thơ 
rồi thả trên dòng Sông Sứ  để vừa làm nhà  vừa làm trụ sở của “Hội tao đàn”, kết
nối bạn yêu thơ trong vùng Sơn Nam Hạ, cùng nhau nuôi dưỡng và  nguyện  sống
chết vì thơ. Có thể coi đây là một ý tưởng độc sáng, một hành vi văn hóa sang

25

trọng, lãng mạn: ngông và thật khác đời, còn Thường Dân  phải được coi là người
thơ ở thế kỷ XXI.

Thuyền thơ neo bến sông đời
Bốn bề sóng vỗ hát lời nhân gian
Thơ theo gió chở quá giang
Đem lòng mình bắc cầu sang lòng người
(Thuyền thơ)

Con thuyền thơ neo đậu bến quê đã giúp ông chở bao nhiêu đạo thuyền
không khẳm (Nguyễn Đình Chiểu) và hình như không ít lần thơ và thuyền thơ đã
trở thành điểm  tựa tinh thần cho  cái cánh chim luôn nơm nớp sợ làn cây cong ấy.

Lặng thầm một chiếc thuyền con
Mà sao chở nặng nguồn cơn cõi người
(Nguyễn Đình Bắc) 

Niềm đam mê thơ từ người thơ đã có ảnh hưởng không nhỏ trong vùng quê
văn vật, đã lan tỏa từ ông tới nhóm bạn yêu thơ: Xuân Đam, Tô Diệp, Phạm Tâm
Dung, Nguyễn Xuân Nhuận… rồi mở rộng và lan xa để có một câu lạc bộ mang
tên  Miền Cổ Tích bề thế với hơn 500 tác giả, trong đó có không ít tài hoa. Và rồi
số khách thơ tìm về bến mộng nơi thuyền thơ Thường Dân neo đậu ngày một đông :

Lãng tử tìm về tận bến mơ
Thăm Miền Cổ Tích thăm Thuyền Thơ…
Chén trà chung rượu say bầu bạn
Đời biết còn vui được mấy lần 
(Với người thơ) 

Có thể nói, nhờ giao lưu mà thơ của anh chị em hội viên  ngày một hay hơn.
Nhờ giao lưu mà thơ Thường Dân đã phát triển  cả về số lượng và chất lượng với
không ít giá trị đặc sắc.
1.2. Đặc sắc thơ Thường Dân
a.Thơ  Thường Dân là một lối thơ trữ tình hướng nội và  lãng mạn
Thơ ông giàu tính trữ tình, hướng nội, lãng mạn  với những hình tượng thơ
đầy mĩ cảm: con thuyền thơ mộng mơ, dòng sông  chở nặng phù sa, cánh diều no
gió hồn nhiên nối đất với trời … 

Hồn làng quê cất cánh bay
Khúc thanh bình dạo khi đầy khi vơi 
Trên đồng mê mải một người
Hồn nhiên nối đất với trời mà chơi.
(Thả diều)

  Thơ ông lãng mạn bởi dường như ông chỉ chuyên chú  đi tìm cái đẹp. Đó
là cái đẹp của sự giao hòa giữa rượu và thơ, những chất xúc tác linh diệu, làm sắc
nhọn  giác quan giúp thi nhân biến tiềm năng thành những tài năng: 

26
Nghiêng bình rượu rót thơ ra
Nào cùng cạn chén phù hoa kiếp người
Rượu mang con chữ khóc cười
Thơ chưng tinh túy cho đời men say
Đường mây lối gió rượu bay
Câu thơ đứng lại giữa ngày mồ côi
(Rượu thơ)

Đó là cái đẹp khi được đắm mình vào thiên nhiên kì thú. Mà theo Hoài
Thanh: đi tìm cái đẹp của tự nhiên đó là nghệ thuật. Thiên nhiên trước hết là  ánh
trăng mang vẻ đẹp kì ảo dịu dàng. Là biểu tượng của cái đẹp nên ánh trăng xuất
hiện trong thơ của Thường Dân với tần số lớn: “Trăng rắc vàng ra trải thảm đường/
Con đường tình nghĩa ngập yêu thương/ Đan tay anh dắt em vào mộng/ Đi giữa
đường trăng thấm đẫm hương (Đường trăng) Trăng đêm nay sáng quá/Dát vàng
bên bến sông (Chuyện Quỳnh và si). Trăng vằng vặc trời cao…Lững lờ một mảnh
trăng treo giữa ngày…
Tiếp đến là vẻ đẹp quyến rũ của hoa, nhất là những loài hoa quý như bà chúa
hoa hồng, hoa quỳnh - những loài hoa mang vẻ đẹp trinh khiết được sinh ra do sự
trưng cất nguyên khí đất trời hội tụ: “Lặng lẽ về đêm/ Lặng lẽ trăng lên/Sáng tối
giao hòa/Quỳnh âm thầm nở/ Sự thoát xác làm ta ngạt thở/Nỗi đau hoa nhức nhối
nỗi đau người (Với Hoa quỳnh)
Đó là vẻ đẹp của chốn vườn  xuân  với những hình ảnh: cánh bướm,  đường
hoa, sương mộng, liễu  rủ bên hồ, khác nào  cõi tiên mộng ảo khiến bạn đọc cứ có
cảm giác thoát tục và như đang hòa nhập vào không khí lãng mạn của  phong trào
Thơ Mới đầu thế kỷ XX… 
  Lạc nẻo vườn xuân theo gió đông
  Dập dìu cánh bướm dụ đi vòng
  Hoe hoe nắng sớm tan sương mộng
  Sực nức không gian thấm đẫm hương
Long lanh mắt biếc với môi hường
  Tiếng chim tình tự trong vòm biếc
  Chân bước ngập ngừng vương vẫn vương
  Lạc nẻo vườn xuân lạc cõi tiên  
(Vườn xuân)
Không gian trong thơ ông là không gian vũ trụ, tĩnh lặng, cao khiết, trong
trẻo là nơi cho kẻ sĩ sống chậm lặng lẽ ngồi câu, là cõi Tiên và những giấc mơ Tiên:

Nằm mơ ngủ vạ ngoài sân
Đêm nay tôi lại một lần gặp Tiên
  (Với hồng nhung) 
Theo thuyết tam tài (thiên – địa – nhân) của cổ nhân xưa, người thơ ấy cũng
lấy thiên nhiên để tỏ nỗi lòng:
 “Tôi đứng vò võ đợi giao/Đằng đẵng mười năm lẻ/Bóng hắt ngược dòng sâu/

27

Run run nhòe ngấn lệ / Một cây si lặng lẽ/ Đứng bén tự khi nào/ Rễ bám vào năm
tháng/ Lá xanh niềm khát khao (Chuyện Quỳnh và si). Quên mình dầu dãi nắng
sương/Nỗi đau người ấy đoạn trường xót xa/Đơn côi đứng giữa phong ba/Cứ xanh
đến chẳng biết là mình xanh (Giao)
Ta dễ dàng nhận thấy, thơ ông không đề cập tới cảnh quê nghèo đói mà chỉ
thấy ở đó một làng quê văn hóa trong hoài niệm, êm đềm và đáng sống.:

Đầu làng cười đỏ hoa quê
Hòa âm ve, cuốc gọi hè thâu đêm…
Chuyển mùa tình khúc lạc vần 
Vườn em cong mảnh đầu tuần trăng treo 
(Khúc giao mùa) 

Đã là giữa mùa thu
Lúa đồng thơm cốm mới
Chim cuốc treo bờ tre
Trứng phơi trên buồng chuối
(Trung thu)

  Có lẽ bởi mục đích của ông về quê, làm thơ để di dưỡng tâm hồn, để tự chữa
lành những vết thương lòng và  để tìm lại những cái đẹp đã bị đánh mất nên ông có
phần né tránh ít đề cập tới những nỗi đau:
Kiên tâm luyện chí cho bền
Lặng không rũ hết ưu phiền nghĩ suy

(Câu)

  Nhưng theo quy luật: cái nhàn luôn đi đôi với cái buồn. Đó là lý do làm cho
thơ Thường Dân luôn toát lên một cái tôi cô đơn, toát lên một nỗi buồn có phần da
diết.
b. Thơ Thường Dân luôn toát lên một cái tôi cô đơn, một nỗi buồn da diết
Vẫn biết cô đơn là gia tài của kẻ làm thơ, vì thơ là tiếng nói tình cảm mà thi
sĩ thường yêu ghét hơn người. Vẫn biết, cái đẹp luôn là sự gặp gỡ giữa hai đối cực
nhưng trong lịch sử thơ ca nhân loại, thơ buồn bao giờ chẳng hay hơn và nhiều hơn
thơ vui. 
Khảo sát thơ Thường Dân ta thấy, trạng thái cô đơn thường xuyên xuất hiện
trong thơ ông. Cụ thể:  con số 1 đơn độc và từ một mình là điệp khúc, được ông
nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần: 

Tôi ở nhà quê có một mình
Vườn cau trăng dãi rót lung linh
Trên con thuyền mộng dòng sông mộng
Lắng gió đêm đêm kể chuyện tình
(Giọt buồn)

Thậm chí tác giả còn có hẳn một bài mang tên  Một mình để diễn tả sự cô
đơn vò võ của nhân vật trữ tình:

Một thuyền, một bóng, một hình

28

Tình thân khuya sớm một quỳnh… không giao…
Sương khuya hương khẽ len vào
Đơn côi vò võ biết nào cậy ai?
(Một mình)

Bởi khi một mình một bóng, con người ắt phải đối diện với chính lòng mình
vì thế nỗi buồn sẽ được tăng lên theo cấp số nhân.  
Có nhà mà chẳng có ai
Buồn hơn trấu cắn gấp hai không nhà
(Nhà tôi)

Cùng với nỗi buồn là nỗi nhớ thương, là những nghĩ suy, là sự mất ngủ. Suốt
năm canh vò võ, trằn trọc, thao thức, nỗi buồn càng trở nên tê tái rồi lan tỏa khắp
không gian làm người thơ thêm thấm thía nỗi cô đơn : 
Lạnh lùng ướt cả chiều quê
Chợt thương, chợt nhớ tái tê lòng người
(Thoáng thu) 
Hai đầu thương nhớ lên vời vợi
Bởi đã hòa chung một giọt buồn
(Giọt buồn)
 Thức quen chẳng biết đêm dài
Ta ru ta thức…biết ai thức cùng?
(Ru thức) 

Đặc biệt  khi đứng trước biển bao la, cái tôi thi nhân bỗng cô đơn đến tột
cùng. Bởi trước sự rợn ngợp, kì vĩ của thiên nhiên, con người mới cảm nhận rõ nhất
cái hữu hạn, bé nhỏ, cái mong manh, ngắn ngủi của kiếp người :

Đơn côi đứng trước biển 
Chẳng thể vỗ vào nhau
Nên trùng trùng con sóng
Vỗ lên đến bạc đầu

(Trước biển )

c. Thơ Thường Dân giàu triết lý:
Thơ Thường Dân không chỉ được bay lên bằng đôi cánh lãng mạn, nhưng 
nhờ  nhìn đời qua ánh nhìn lãng mạn, ông có thể bay cao hơn và có thể nhìn sâu
hơn vào những khuất khúc, những khoảng lặng của cuộc đời. Vì thế thơ ông rất
giàu tính triết lý. Tính triết lý có thể ở ngay những cái tên tác phẩm rất cô đọng,
hàm súc. Thậm chí có những cái tên  duy nhất  một từ : Tâm, Thức, Nợ, Bóng,
Lịch, Tham…
Mặt khác, càng đi sâu vào bản thể, thơ ông ngày càng giàu triết lý. Đây là
triết lý của ông về chính con người mình, ông đã nhận diện được mình nhờ cái mùi
người gốc không hề son phấn: 

Giữa sắc hương ngụy tạo
Thật riêng mình anh thôi

29
Không vương mùi mỹ phẩm 
Mùi anh mùi con người 
(Mùi anh)

 Và ông cũng đã nghiệm ra rằng, trong hạnh phúc có khổ đau, khổ đau chính
là một phần không thể thiếu của hạnh phúc. May rủi âu cũng là do cái quay tạo hóa
búng sẵn lên trời:

 Nở bung ra - vỡ bung ra! 
 Mới hay hạnh phúc cũng là khổ đau! 
(Hoa tim) 
Ngẫm xem tạo hóa vần xoay 
May người này rủi người này mà nên
(Chợ Viềng)

Suy cho cùng, đời người chỉ là một chuyến đi dài rồi thân cát bụi lại trở về
cát bụi:

Cả đời là một chuyến đi
Khác gì bèo dạt khác gì mây trôi
(Bạn tôi)
Đời người đều thế cả thôi
Sang hèn rồi cũng  lấp vùi nông sâu
(Thử chết)
  Đời như sông khi bồi khi lở
Sông như đời vẫn một dòng trôi
(Tình sông)

Trong khi xã hội có rất nhiều biến động như hiện nay, cái sự chân – giả, giả -
 chân nhan nhản khắp nơi, nhà thơ không chỉ có thái độ phê phán, phủ nhận  sự
nhốn nháo của cuộc đời mà ông còn an nhiên bởi đã thấu thị được cái điều sắc sắc
không không giữa chốn nhân gian: 

Chân giả mà lắm ngược xuôi
Dẫm cho nát bét cuộc đời giả chân
(Giả chân) 
Là không mà có thì nên
Lá trầu in một trái tim giữa đời
 (Trầu không)

Người ta cho rằng, một tác phẩm thơ hay là tác phẩm vừa làm rung động trái
tim bạn đọc vưà hàm ngậm triết lý nhân sinh sâu sắc. Theo tiêu chí ấy, thơ Thường
Dân có được không ít câu hay. Thành công của tập Thuyền thơ ngoài khả năng phát
hiện những nội dung trữ tình, ngoài tư duy thơ mang tính triết lý, còn phải kể đến 
khả năng thể hiện khá tinh tế uyển chuyển của tác giả những đề tài, khả năng sử
dung các thể loại  như: lục bát, song thất lục bát, thơ 5 tiếng, thơ 7 tiếng, thơ tứ

30

tuyệt,  thơ tự do. Thậm chí có bài rất gần thơ văn xuôi... Đặc biệt về ngôn ngữ thơ
Thường Dân có những sáng tạo rất riêng, góp phần làm giàu có, phong phú thêm
cho ngôn ngữ dân tộc.
Thứ nhất  nhờ sự  chuyển đổi cảm giác ông đã có  cách kết hợp từ rất  mới, 
tạo thêm nghĩa mới cho từ: giấy góa, ngày mồ côi, rỗng mùa hè,  ướt cả chiều quê,
xuân khép dải lưng xanh, xuân vươn ngực thở, ngô với từng cặp giò mềm, Ước mơ
nay đã úa vàng

Heo may thổi vẹt mùa đông
Để cho cây cải hát rong về trời
(Nhà quê)
Chạy rông khắp mọi xứ đồng
Tuổi thơ đâm cái mênh mông lên trời
(Thả diều)
Giận gì chợt nắng chợt mưa
Mồ côi ngọn gió ,lối xưa lạc về
Lạnh lùng ướt cả chiều quê
Chợt thương, chợt nhớ tái tê hồn người
(Thoáng thu)

Thứ hai, ông đã sử dụng linh hoạt rất nhiều ngôn ngữ dân gian.
  Hiểu rằng thơ viết về làng quê thì không gì bằng sử dụng đắc địa thành ngữ,
tục ngữ vì đó là thứ ngôn ngữ được cô đi đúc lại nên ông cố gắng vận dụng
những thành ngữ, tục ngữ sao cho đắc địa. Hóa thân vào câu thơ ông, những chất
liệu dân gian đã tái sinh và tỏa sáng tạo nên những giá trị mới: Nắng tháng tám rám
trái bòng, Xanh nhà hơn gìa đồng, duyên phận phải chiều,Lấy chồng từ thuở mười
ba, Cái có cái vạc,Nước đổ lá khoai,Lời nói gió bay,Thả hồn bắt bóng,Con hơn cha,
Chín hẹn mười chờ, Cau sáu bổ ba, vợ người thì đẹp, thơ mình thì hay, muối mặn
gừng cay, trời thương đãi kẻ khù khờ, thân tằm rút ruột nhả tơ, bèo dạt mây trôi…
Thơ Thường Dân có những thành công còn do đã tiếp cận được cách nghĩ,
cách cảm, cách  tư duy dân gian và đã vận dụng khá linh hoạt vào thơ. Với dân
gian, cái đẹp nằm trong cái giản dị. Vì đi đến tận cùng cái đẹp đó là sự giản dị. Nên
thơ ông:

Càng giản dị càng hay
  Như rượu quê nút lá
Mới nhấp chén đã say

(Giản dị, Phạm Tâm Dung).

Xin chúc mừng nhà thơ Thường Dân với tác phẩm Thuyền thơ đáng đọc.

In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
21-01-2024 16:17:12 VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN BÀI VIẾT CÔNG PHU CỦA PGS.TS. TRẦN THỊ TRÂM!

Trả lời

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)