bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN BÁC ĐỖ  CHIÊU ĐỨC! LUÔN CÓ LIÊN HỆ ĐẾN TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM! CHÚC BÁC AN LÀNH!

 

VŨ NHO 085 589 0003

HOAN HÔ NHÀ KIỀU HỌC VƯƠNG TRỌNG! THÚ VỊ!

 

VŨ NHO 085 589 0003

XIN LỖI SỬA: NHÀ KIỀU HỌC VƯƠNG TRỌNGVŨ NHO

 

VŨ NHO 085 589 0003

NHÀ KIỀU HỌC KIM TRỌNG QUÁ KHE KHẮT VỚI CÔ EM THÚY VÂN! CHUYỆN NÉT NGÀI LÀ NÉT NGƯỜI CHÚNGTÔI CŨNG ĐÃ TRANH LUẬN RỒI! NGƯỜI NỞ NANG LÀ VÓC DÁNG CÔ THÔN NỮ! VÂN VÀ KIỀU ĐỀU LÀ TIỂU THƯ KHUÊ CÁC " ĐIỆU ...

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN PHÓNG VIÊN VOV VÕ HÀ VỀ CHÂN DUNG NHÀ VĂN VŨ BÌNH LỤC!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN DỊCH GIẢ THÁI XUÂN NGUYÊN ( NGUYỄN XUÂN THÁI) ĐÃ BỀN BỈ CỘNG TÁC!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 22
Trong ngày: 37
Trong tuần: 955
Lượt truy cập: 855296

PHIẾM ĐÀM của ĐỖ CHIÊU ĐỨC

Thành Ngữ Điển Tích 117 : 

                                U, UYÊN, UNG, ƯNG.

     ĐỖ CHIÊU ĐỨC

                      Inline image
                                       Phong hỏa hí Chư hầu

     U là U VƯƠNG 幽王 : Ông vua cuối cùng của đời Tây Châu (Tây Chu), với sự tích như sau :

     CHÂU U VƯƠNG 周幽王(796—771 Trước Công Nguyên) Họ Cơ 姬, tên Cung Niết 宫涅, "Sử Ký" ghi là Cung Tinh 宫湦. Con của Châu Tuyên Vương, là đời vua thứ 12 cũng là đời ua cuối cùng của đời Tây Châu, ở ngôi được 11 năm thì mất nước (796- 771 trước Công Nguyên). Tương truyền :
      Năm thứ 3 đời U Vương có mỹ nữ Bao Tự nhập cung, được U Vương vô cùng sủng ái, chẳng bao lâu sau sanh được con trai là Bá Phục. U Vương bèn phế Thái tử Nghi Cửu là con của Thân Hoàng hậu, lập Bá Phục làm Thái tử. Bao Tự có gương mặt thật đẹp, nhưng lại luôn ưu sầu, U Vương đã thử rất nhiều cách để làm cho nàng cười, nhưng đều thất bại. Cuối cùng phải đốt Phong hỏa đài để hiệu triệu chư hầu đến cứu giá. Bao Tự trông thấy chư hầu kéo binh đến một cách vội vàng, cờ xí rợp trời, quân reo dậy đất, đồng thanh hô to cứu giá, bèn cất tiếng cười vang vì thấy các chu hầu bị gạt. U Vương thì tỏ ra rất hài lòng mãn nguyện vì đã làm cho người đẹp bật cười, còn các chư hầu thì ngỡ ngàng đem quân về xứ. Sau mấy lần đốt Phong hỏa đài để đổi lấy tiếng cười của người đẹp, U Vương đã mất đi cái uy tín của Thiên tử đối với chư hầu, nên khi Thái tử bị phế là Nghi Cửu chạy sang cầu cứu với ngoại tổ ở đất Thân. Thân Hầu bèn đem binh sang hỏi tội. Hai quân đánh nhau, U Vương yếu thế, đốt Phong hỏa đài để cầu chư hầu các nơi đem binh đến cứu viện, nhưng các chư hầu lại sợ bị gạt để làm trò cười cho Bao Tự, nên đều án binh bất động. 
     Cuối cùng, U Vương thua chạy đến Li Sơn thì bị giết. Chấm dứt triều đại Tây Châu và mở ra triều đại Đông Châu khi thái tử Nghi Cửu lên ngôi và thiên đô về đông.     

     Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu có câu :

                         Ghét đời U, LỆ đa đoan,
              Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

     Ngoài U VƯƠNG là ông vua mất nước ra, LỆ VƯƠNG 厲王 là ông vua thứ 10 của Tây Châu rất tàn ác hung bạo, khiến cho dân chúng gặp mặt nhau không dám nói chuyện với nhau mà chỉ dám ra hiệu với nhau bằng mắt mà thôi . Trong tác phẩm Sãi Vãi của cụ Nguyễn Cư Trinh khi cho ông Sãi luận về chữ "Ghét" đã có câu :

                  ... Ghét KIỆT, ghét TRỤ, ghét LỆ, ghét U,
               Ghét nhân chánh chẳng tu, ghét cang thường nở bỏ !...

      KIỆT 桀 là ông vua hoang dâm hung bạo của cuối đời nhà Hạ; TRỤ 纣 là ông vua hoang dâm vô độ của cuối đời nhà Thương. Nên KIỆT, TRỤ, LỆ, U, đều là những hôn quân bạo ngược hoang dâm của thời thượng cổ trước Công nguyên.

              Inline image
                            Hình tượng của bốn hôn quân   KIỆT, TRỤ, LỆ, U . 
       
     U còn có nghĩa là Vắng lặng, sâu xa; như U CỐC 幽谷 là nơi Thung lũng xa xôi vắng vẻ, như câu nói của Khổng Tử : 孔子曰 Khổng Tử viết :「Chi lan sanh u cốc, bất dĩ vô nhân nhi bất phương 芝蘭生幽谷,不以無人而不芳」,又曰 Hựu viết :「Lan đương vi vương giả chi hương 蘭當為王者之香」。Có nghĩa :
     Khổng Tử nói rằng :"Cây chi lan mọc ở nơi thung lũng vắng vẻ, không vì không có người mà không tỏa hương thơm". Lại nói rằng :"Lan có mùi thơm của bậc vương giả". Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có câu :

                           Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
                     Uổng mùi hương vương giả lắm thay !

              Inline image
       
     UYÊN là UYÊN ƯƠNG 鴛鴦 là một loài chim vịt, có tên khoa học là Aix galericulata, sống thành từng đôi. Trong dân gian và trong văn học, Uyên Ương là biểu tượng cho tình vợ chồng chung thủy có nhau. Uyên là con trống, Ương là con mái và Uyên Ương còn tượng trưng cho những cặp đôi có trống có mái, có âm có dương, như Uyên Ương Đao, Uyên Ương Kiếm... Trong Truyện Kiều, khi tưởng Thúy Kiều đã bị chết cháy, cụ Nguyễn Du đã tả lại tâm lý buồn thương của chàng Thúc Sinh như sau :

                            Lâm Truy từ thuở UYÊN bay,
                Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
                            Mày ai trăng mới in ngần,
                 Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa !...

     UYÊN là con chim trống, Thúy Kiều mất, lẽ ra cụ Nguyễn Du phải viết là : "Lâm Truy từ thuở ƯƠNG bay" mới đúng; Sao cụ lại viết là "UYÊN bay"? Có sự lầm lẫn nào hay chăng ?! Tôi bèn lên mạng hỏi ông Google, thì ra lại có thuyết cho là hai từ UYÊN ƯƠNG phát âm Quan thoại là "Yuan-Yang" là hài thanh của hai từ "Yin-Yang 陰陽" là ÂM DƯƠNG. Nếu đúng thế, thì UYÊN là ÂM còn ƯƠNG là DƯƠNG, và UYÊN là con MÁI và ƯƠNG là con TRỐNG. Câu thơ của cụ Nguyễn Du đã theo thuyết nầy chăng ?
      Trở lại với từ UYÊN ƯƠNG trong văn học cổ thường dùng để chỉ vợ chồng với tình yêu thắm thiết, không nở xa rời nhau dù nửa bước, như trong truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính có câu :

                                     Nửa chăn để bụi đã dày,
                       UYÊN ƯƠNG ước lại sum vầy hơn duyên. 

                      Inline image
       
      UYÊN MINH tức ĐÀO UYÊN MINH 陶淵明(365—427), tên thât là ĐÀO TIỀM 陶潛, tự là Nguyên Lượng, biệt hiệu là Ngũ Liễu Tiên Sinh, vì từng là Huyện lệnh của huyện Bành Trạch nên còn được gọi là Đào Bành Trạch. Ông là nhà từ phú, tản văn và là một nhà thơ lớn cuối đời Đông Tấn. Ông còn được xem như là tị tổ của thi phài Điền viên và là một thi nhân ẩn dật nổi tiếng trong văn học cổ Trung Hoa. Tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng để đời của ông là "Đào Hoa Nguyên Ký", "Quy Khứ Lai Từ", "Ngũ Liễu Tiên Sinh Truyện"... Nhắc đến thơ Điền viên của ông là người ta nhớ ngay đến hai câu : "Thái cúc đông ly hạ, Du nhiên kiến Nam sơn 採菊東籬下,悠然見南山". Có nghĩa :
                                   Hái cúc dưới rào đông,
                                   Bóng Nam sơn thấp thoáng !...

       Trong Quốc Âm Thi Tập, phần vô đề, Mạn Thuật bài 9 (Am Quạnh) của nhà thơ Nguyễn Trãi có câu :
     
                             Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ,
                            Tay còn lựa hái cúc UYÊN MINH.

                           Inline image

       UNG MÔN 雍門 người đất Lâm Truy nước Tề thời Chiến Quốc, họ Châu nên còn được gọi là UNG MÔN CHÂU 雍門周, UNG MÔN TỬ hay UNG MÔN TỬ CHÂU. Ông giỏi âm nhạc, nhất là cổ cầm. Ai nghe ông đàn cũng phải bi thương mà rơi lệ. 
       Một trong "Chiến Quốc Tứ Công Tử 戰國四公子" là Mạnh Thường Quân 孟嘗君 của nước Tề cũng rất giỏi về âm luật và cổ cầm, không tin là tiếng đàn của Ung Môn Châu có thể làm cho mình rơi lệ, bèn cho người mời Ung Môn Châu đến mà hỏi rằng :"Nghe nói Tiên sinh rất thiện nghệ về đàn cầm, không biết là có thể đàn môt khúc khiến cho ta rơi lệ hay không ?" Ung Môn Châu đáp rằng :"Tiếng đàn của tôi chỉ có thể làm cho bảy hạng người rơi lệ, chớ không thể làm cho ngài rơi lệ đước !" Mạnh Thường Quân hỏi :"Là bảy hạng người nào ?. Đáp :"Đó chính là những người trước đây giàu sang phú quý nhưng nay đã nghèo khổ túng cùng; Những người có tài năng và phẩm hạnh cao nhã mà không được người đời biết đến; Những bạn hữu hay người yêu thân thiết bị bắt buộc phải xa nhau không biết đến bao giờ mới gặp lại; Những cô nhi quả phụ không nơi nương tựa lại không có người giúp đở; Những người ở vào thế nghịch cảnh khó khăn mà lối xóm lại không ngó ngàng đến; Những người bị vu cáo hàm oan mà không có cách nào giải bày được; Những người tài hoa xuất chúng mà luôn bị chèn ép ức chế không thể thi thố tài năng được. Bảy hạng người này khi nghe tiếng gió hú mưa rơi, tiếng vạc ăn đêm hay tiếng chim kêu thê thiết thì đã động lòng rơi lệ rồi nên khi nghe tiếng đàn buồn bã của tôi là họ sẽ bật khóc ngay, còn ngài là người tôn quý, quan chức cao sang, ở nhà cao cửa rộng, ăn toàn cao lương mỹ vị, mặc toàn gấm vóc lụa là, ra ngoài thì có tiền hô hậu ủng, về nhà thì có thê thiếp mỹ nữ đầy nhà... Dù cho tôi có tài giỏi đến đâu cũng không thể đàn lên một khúc nhạc bi thương để cho ngài phải buồn lòng mà rơi lệ cho được !"  
      Mạnh Thường Quân nghe xong gụt gặt đầu cho là có lý; Ưng Môn Châu bỗng lại trở giọng nói rằng :"Nhưng theo tôi, thì ngài cũng có chỗ lo lắng buồn phiền đó. Này nhé, hiện nay Tô Tần đang chủ trương Hợp Tung liên kết các nước yếu lại để đánh nước Tần; Còn Trương Nghi thì đưa ra kế Liên Hoành du thuyết các nước nhược tiểu vựa vào nước mạnh để thảo phạt nước Sở. Còn ngài thì theo cả hai bên, đắc tội với cả nước Tần và nước Sở. Theo tình thế hiện nay, nếu Hợp Tung thành công hì nước Sở sẽ xưng Hùng, còn Liên Hoành thành công thì nước Tần sẽ xưng Bá. Bất cứ nước nào xưng hùng xưng bá thì ngài đều bị họ trả thù cả. Ngài có bao giờ nghĩ là mảnh đất Tiết Ấp nhỏ nhoi của ngài, nếu như họ muốn đem quân chiếm lấy thì dễ dàng như là vùng búa lớn để chém nấm rơm vậy không ?. Những bậc thức giả nhìn xa hiểu rộng không khỏi lo lắng cho số phận của ngài sau nầy đó !". 
      Mạnh Thường Quân nghe thế, vẻ ưu tư lộ ra nét mặt, lòng rất bất an mà hỏi rằng :"Tiên sinh ơi, thế thì ta phải làm sao đây ?!". Ung Môn Châu cất giọng trầm trầm nói tiếp :"Không chỉ có nước mất ấp tan thôi đâu. Hậu quả còn thê thảm hơn nữa kìa, nhà cửa lâu đài hoa lệ của ông sẽ bị người chiếm lĩnh, từ đường tông miếu nhà ông sẽ bị sụp đổ tan hoang; đến khi ông chết mồ mả sẽ không có người cúng tế, cỏ hoang hoa dại mọc đầy, mặc cho chồn thỏ đào hang khoét lổ, lũ mục đồng dẫn trâu dẫm đạp vui chơi trên đó, không người tu sửa tảo mộ cúng tế, nấm mộ chỉ còn là một nấm đất sè sè bên đường mà thôi, và chắc chắn sẽ có rất nhiều người cảm thán mà nói rằng :"Đây chính là ngôi mộ của Tể tướng Mạnh Thường Quân đã từng hiển hách một thời. Nhưng thời oanh liệt nay còn đâu ! Ngài có từng nghĩ đến những điều nầy chưa ?!" Trong lúc vừa nói thì tiếng đàn của Ung Môn Châu cũng đã trầm bổng vang lên, đôi tay thần diệu đã khởi động các bậc cung thương, nhẹ nhàng ai oán chuyển qua âm giốc chủy vũ, tiếng đàn như ai như oán, như thở như than khiến cho Mạnh Thường Quân xúc cảm thương tâm tưởng như là mình đang ở trong cảnh nước mất nhà tan vậy...
      Khi Ung Môn Châu chấm dứt tiếng đàn, thì Mạnh Thường Quân đôi mắt cũng đã đầm đìa ngấn lệ. Ông chợt như tỉnh mộng, vội vàng đứng lên xá Ung Môn Châu mà nói rằng :"Ta nghe ông đàn mà cứ tưởng chừng như là mình đã là người quốc phá ấp vong rồi vậy !".

      Trong "Hoài Cổ Khúc" của ta có câu :

                                      Xót thân khóc tủi buồn thầm,
                            Tiếng tiêu Ngũ Tử, khúc cầm ƯNG MÔN !

                 Inline image
     
       ƯNG KHUYỂN hay KHUYỂN ƯNG 犬鷹 là Chó săn và Chim ưng (Chim Cắt) thường để dùng trong việc đi sắn bắn, là hai loại động vật đắc lực giúp chủ săn mồi. Dùng rộng ra chỉ những người du thủ du thực chuyên giúp người xấu làm việc ác. Như trong Truyện Kiều khi biết Thúc Sinh có vợ lẻ mà còn giấu mình, Hoạn Thư đã về nhà "mét má" và Hoạn Bà đã giúp con gái bằng cách :       

                     Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
                  Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
    ... rồi mới :
                     Sửa sang buồm gió lèo mây,  
                 KHUYỂN ƯNG lại chọn một bầy côn quang.
                     Dặn dò hết các mọi đàng, 
                 Thuận phong một lá vượt sang đất Tề...
    ... và sau đó :
                     KHUYỂN ƯNG đã đắt mưu gian,
                 Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.  
... khi về đến nơi thì :
                     Giã đò lên trước sảnh đường,
                KHUYỂN ƯNG hai đứa nộp nàng dâng công.                 
  
       Kịp đến khi Thúy Kiều báo ân báo oán thì ƯNG KHUYỂN cũng không thể chạy thoát đằng trời :
                ... Trước là Bạc Hạnh Bạc bà,
                Bên là ƯNG KHUYỂN bên là Sở Khanh,
                    Tú bà với Mã Giám sinh,
                Các bên tội ấy đáng tình còn sao?
                 Lệnh quân truyền xuống nội đao,
                Thề sao thì lại cứ sao gia hình...
                      
      ƯNG 應 còn có nghĩa là PHẢI. Như trong câu Kệ : Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm 應無所住而生其心. Có nghĩa :
      - ƯNG VÔ SỞ TRỤ nghĩa là: Phải không có cái gì đó được giữ lại.
      - NHI SANH KỲ TÂM là:... Mà sanh ra cái tâm đó.
        Ghép 2 vế lại, nghĩa của cả câu là: "Cái tâm được sanh ra khi trong lòng không có giữ lại một tạp niệm nào cả!". ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM nghĩa là thế!
                             
                            Inline image
                                Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm

      Cái khó là: Làm sao KHÔNG giữ lại trong lòng một Ý niệm nào cả, KHÔNG là không rồi, mà SẮC cũng là KHÔNG luôn thì mới được, phải Ý thức được là pháp luân đang xoay chuyển, vạn vật đang vận động không ngừng nghỉ, không TRỤ lại đâu cả!  Đừng cố gắng giữ cái gì đó lại ở trong lòng mặc dù cái đó là việc tốt, việc mình muốn làm, rồi cố gắng thực hiện việc đó... Cái đó kêu bằng: HỮU SỞ TRỤ, còn ở đây là: VÔ SỞ TRỤ mà! ƯNG là Phải, Phải VÔ SỞ TRỤ như Lục Tổ Huệ Năng vậy thì mới thốt ra được câu kệ...

             Bổn lai vô nhất vật,    本來無一物
             Hà xứ nhạ trần ai ?!    何處惹塵埃 ?!
       (Vốn dĩ KHÔNG có gì cả, thì lấy đâu ra cái CHỖ để nhuốm bụi trần ?!)

      Cái tâm được sanh ra khi trong lòng không giữ lại một cái gì cả, đó chính là cái PHÁP TÂM, cái THIỀN TÂM đó vậy!

      Hẹn bài viết tới !

                                                                                        杜紹德
                                                                                   Đỗ Chiêu Đức

hoa_sung_1     
 
 
 
 
 
In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
06-03-2025 14:45:14 VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN BÁC ĐỖ  CHIÊU ĐỨC! LUÔN CÓ LIÊN HỆ ĐẾN TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM! CHÚC BÁC AN LÀNH!

Trả lời

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Nguyễn Thị Mai
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003.
Nhà văn, Phó Gs, Tiến sỹ VŨ NHO:  vunho121@gmail.com