BÌNH BÀI THƠ “CHỢ ĐÊM LONG BIÊN”(*) của Nguyễn Thị Mai
Buôn đêm để bán sáng ngày
Một vùng không ngủ, kề ngay phố phường
Ngợp trời rau quả muôn phương
Về đây từ khắp nẻo đường bán mua
Chợ đêm dù bão, dù mưa
Vẫn đông người vợ, vẫn thưa người chồng
Chuyển khuân, bốc dỡ, gánh gồng
Nón che kín mặt kiếm đồng sinh nhai
Nữ nhi cửu vạn đêm dài
Vác khiêng hùng hục, sụn vai, vẹo người
Giữ lành quả ngọt, rau tươi
Chị tay đen đúa, em người nhọ nhem
Mồ hôi, sương muối ố hoen
Buốt lưng cửu vạn, đã quen với nghề
Đồng công năm bảy sẻ chia
Nẻo cơm quán trọ, nẻo về nuôi con
Chợ trăng đêm khuyết, đêm tròn
Khiêng sương, vác gió cũng mòn hai vai
Bữa ngon, hiểu được mấy ai?
Chỉ cây cầu biết,
thở dài với sông.
Hà Thành, 7/ 2009
Nguyễn Thị Mai
(Trích trong tập thơ “Lục bát em và anh” nxb Quân đội nhân dân 2010)
Lời bình của Thanh Ứng
“Thương lắm, người ơi!” Đó là cảm xúc của người đọc khi tiếp cận bài thơ “Chợ đêm Long Biên” của Nguyễn Thị Mai. Trái tim nhà thơ lại một lần nữa rộn đập với cảnh tình, số phận của người cùng giới. Cũng là chợ đêm nhưng khác nơi khác, chợ đêm Long Biên là chợ đầu mối. Chợ ở ngay cạnh đường phố náo nhiệt, bên những tòa nhà cao tầng, những cửa hiệu lấp lánh ánh đèn, khu chợ tấp nập, rộn rã, ầm ào…suốt đêm này đến đêm khác. Chợ chỉ họp về đêm. Đúng như nhà thơ nhận xét: “Buôn đêm để bán sáng ngày”. Đây là chợ không chỉ bán mua bình thường mà người bán, người mua đều từ xa tới. Họ bán từng chuyến, cất buôn từng xe và từ đây chở đi mọi chợ khác để bán lấy đồng lời lãi mưu sinh. Viết về chợ, tác giả không tả người bán, người mua trao đổi tiền hàng như những chợ khác. Nhà thơ đặc tả những con người cần lao làm cửu vạn: “Chuyển khuân, bốc dỡ, gánh gồng”, những con người “vác khiêng hùng hục, sụn vai, vẹo người”. Công việc nặng nề, cực nhọc đó lại không phải do những người đàn ông cường tráng làm mà lại do những người phụ nữ vốn được coi là chân yếu, tay mềm đảm đương. Có thể nói như nhà thơ Nguyễn Thị Mai: đây là chợ của những người phụ nữ, cho dù thời tiết đổi thay, quanh năm, suốt tháng “vẫn đông người vợ, vẫn thưa người chồng”. Là một nhà giáo, nhiều năm công tác Hội Phụ nữ, nhà thơ Nguyễn Thị Mai có một trái tim nhạy cảm với nỗi đau của những người cùng giới, đặc biệt là những người lao động ở tầng lớp dưới của xã hội. Đời chị cũng đã qua nhiều chợ: Chợ quê “Qua hàng trầu vỏ” mua cau trầu cho mẹ thuở nào, “Chợ bãi” giản dị, quê kiếng ở vùng Phúc Thọ, Hà Tây ngày xưa, chợ hoa xuân vơi những “Dơn hồng, huệ trắng…ríu ran gọi mời”…nhưng chưa chợ nào cho chị cái cảm xúc đắng đót như ở chợ đêm Long Biên. Với một sự quan sát tinh tế, nhà thơ khắc họa những chi tiết đặc trưng của chị em lao động: “Nón che kín mặt, kiếm đồng sinh nhai”, “Mồ hôi sương muối ố hoen, buốt lưng cửu vạn đã quen với nghề”. Lao động cực nhọc là vậy mà đồng tiền kiếm được lại ít ỏi. Đồng tiền đó còn phải chia năm, sẻ bảy “Đồng công năm bảy sẻ chia/ Nẻo cơm quán trọ, nẻo về nuôi con”. Nguyễn Thị Mai không những khéo sử dụng từ ngữ mà nhà thơ còn thành công khi sử dụng các vế đối ở câu tám trong thể lục bát để làm cho ý thơ được tăng tiến, diễn tả rất ấn tượng nỗi vất vả của chị em như nó đang tồn tại chồng chất trong cuộc sống: “Chị tay đen đúa/ em người nhọ nhem”, “Nẻo cơm quán trọ/ nẻo về nuôi con”, “Khiêng sương/ vác gió…”Đó là một góc khuất của cuộc sống được nhà thơ phát hiện và trải lòng thông cảm. Họ là những cá thể nhỏ bé trong cả một vùng chợ huyên náo, oi ả, nồng nặc mùi vị cay mặn của cuộc sống đời thường bươn trải. Không phải là những con số ít ỏi mà là số đông ồn ào, chen chúc như số phận của rất nhiều phụ nữ trong xã hội chúng ta. Những dòng lục bát nối nhau, những từ ngữ miêu tả đầy ấn tượng, những phép tiểu đối trong các dòng thơ…đã gieo vào trong lòng người đọc những cảm thương sâu sắc về thân phận người phụ nữ trong thời buổi cơ chế thị trường chi phối ngang dọc cuộc sống con người.
Những lao động cực nhọc của người phụ nữ trong “Chợ đêm Long Biên” cũng được an ủi với niềm vui ít ỏi khi thấy những “quả ngọt, rau tươi” được chị em nâng nhấc từ vùng chợ đêm vất vả này sẽ được đến từng mái nhà, từng gia đình trong các bữa cơm ấm cúng hàng ngày. Tuy nhiên, sự ngọt ngào đó thật là hiếm hoi và quá mỏng manh so với từng đêm, từng đêm họ phải vật lộn với những ánh đèn trong nặng trĩu vất vả lo toan kiếm miếng cơm manh áo cho bản thân và gia đình. Cuộc sống lao động âm thầm của bao người phụ nữ này thật ít người biết đến? Tác giả bộc lộ sự cảm thông chia sẻ với người lao động ở khu chợ đêm Long Biên bằng hai câu kết với dấu hỏi và lời cảm thán xót xa:
Bữa ngon hiểu được mấy ai?
Chỉ cây cầu biết,
thở dài với sông.
Nhà thơ Nguyễn Thị Mai đã cho người đọc biết có một “Chợ đêm Long Biên” như thế. Ở đó có những người phụ nữ lao động cực nhọc để kiếm sống và góp phần nuôi sống gia đình, làm ấm êm thêm xã hội. Họ là những số phận nhẫn nhịn chịu đựng, bền bỉ lao động trong sự thờ ơ, vô cảm của bao người. Bài thơ kết thúc, hình ảnh cây cầu Long Biên, chứng nhân lịch sử hàng thế kỉ nay vẫn đứng đó và tiếng thở dài như sóng nước Hồng Hà như ngân vọng trong lòng bạn đọc. Bài thơ tạo được sức lan tỏa lớn, có khả năng lay tỉnh và thức gọi những gì sâu kín trong bản ngã nhân ái của con người.
.
Thanh Ứng
(*)(Bài thơ được giải nhì thi(không có giải nhất) trong cuộc thi thơ lục bát “Ngàn năm thương nhớ” do 6 báo đồng tổ chức trong đó có báo Văn Nghệ, kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội)
Người gửi / điện thoại