TIẾP THEO
NHÀ VĂN VŨ NHO
Các nhà thơ hiện đại không ít thì nhiều đều chú ý đến tìm chữ. Có thể thấy rõ xu hướng này trong thơ Lê Đạt, Vũ Xuân Hoát và rõ rệt hơn cả là Nguyễn Duy. Trong thơ Nguyễn Duy, chúng ta gặp ngày ngun ngủn, đêm rỗng tuếch, gió toang hoang, gió tuây huẩy, bay bướm bườm rườm, nhoẻn nụ đười ươi…
Những từ ngữ độc đáo trong thơ, ngoài giá trị tự thân của mình, chúng còn thường gắn liền với những phương tiện, biện pháp tu từ. Các nhà thơ thường dùng phổ biến là so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng. Đã có hẳn một bài viết về so sánh trong thơ ( Đi giữa miền thơ. Nhà xuất bản Văn Học,1999). ở đây sẽ nói qua về các phương tiện, biện pháp còn lại.
ẩn dụ cũng là so sánh, nhưng là so sánh ngầm. Các nhà ngôn ngữ học cho rằng đây đây là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa hai khách thể.
Trần Thị Vân Trung viết:
Ôi! Em căm giận cho sự nhạy cảm của chính bản thân mình
Để đến nỗi
-Nụ cười anh trẻ trung
-Lời nói anh dịu dàng
Cũng không còn có thể
Níu kéo một mặt trời đang lặn ở trong em
Một mặt trời đang lặn.
Trong tập Khoảng cách cuối cùng, Nxb. Thanh Niên,1999.
Mặt trời đang lặn là ẩn dụ về người mà nhà thơ yêu quý, tôn thờ, nâng niu. Có vẻ rất hiện đại. Nhưng người con gái trong ca dao đã từng coi người mình yêu như mặt trời rồi: Thấy anh như thấy mặt trời. Chói chang khó ngó trao lời khó trao. Cái mới ở đây là vừng mặt trời đang lặn không thể níu kéo lại.
Chúng ta hãy xem xét câu Kiều:
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai
ở đây, Nguyễn Du đã dùng hình ảnh hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu để so sánh với hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Cả hai người đẹp ví với hai loại hoa đẹp của hai mùa là rất phù hợp. Và trong đó hình như nhà thơ cũng vẫn luôn có ý thức về vẻ đẹp "mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
Trong bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương viết:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Hình ảnh mặt trời trong câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ. Đây là ẩn dụ hay, vì trong tình cảm nhân dân, Bác là mặt trời Cách mạng, mặt trời chân lí, Bác như trời xanh biển rộng ( Bác ngồi đó lớn mênh mông. Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non. Tố Hữu ).
Hoán dụ cũng là một phương tiện các nhà thơ thường hay dùng. Những hoán dụ thành công sẽ đem lại chiều sâu ý nghĩa cho câu thơ, giúp nhà thơ bày tỏ được những điều mình muốn nói.
Diễn tả tấm lòng của nhân dân Việt Bắc với lãnh tụ, Tố Hữu dùng hình ảnh rừng núi:
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người
Rừng núi là nơi chiến khu cách mạng, rừng núi là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Vậy rừng núi trông theo … chính là nhân dân Việt Bắc ngưỡng mộ, trông theo lãnh tụ. Câu thơ thể hiện tấm lòng, tình cảm của nhân dân với Bác.
Tự thuật về mình, nhà thơ Hữu Thỉnh viết:
Tôi bước vào thành phố
Với nguyên mùi rơm tươi
Tôi bước vào thành phố
Mùi rơm tươi là mùi của mùa màng, của làng xóm làm nông nghiệp. Mùi rơm tươi ở đây để thay thế cho sự mộc mạc, chân chất, vất vả, lực lưỡng của những người gắn bó với ruộng đồng, những người "chân quê".
Kết thúc bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật viết:
Không có kính rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe cứ chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Trái tim chính là hình ảnh hoán dụ, nói về tấm lòng, về phẩm chất tinh thần, về người chiến sĩ lái xe. Hình tượng thơ gợi nhớ trái tim chói sáng của chàng Đan cô trong thần thoại. Đồng thời, nhà thơ muốn khẳng định: con người mới là yếu tố quan trọng quyết định cuộc chiến tranh chứ không phải là vũ khí.
Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, chúng ta sẽ gặp một hoán dụ hay:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Câu hát là hình ảnh hoán dụ chỉ những người lao động làm chủ đời mình, làm chủ biển khơi. Câu hát thấp thoáng trong suốt quá trình ra khơi, đánh cá, trở về. Đó là khí thế phơi phới yêu đời, vui tươi, hăng say lao động dựng xây cuộc sống mới.
Nhân hoá là một phương tiện không thể thiếu trong các phương tiện mà nhà thơ sử dụng. Nhân hoá thường gắn liền với tượng trưng. Bài thơ "Tre Việt Nam" của Nguyễn Duy là một ví dụ khá tiêu biểu cho sự nhân hoá và tượng trưng.
- Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
- Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
- Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
Cây tre đã được nhân hoá một cách tài tình. Tre đúng là con người nông dân Việt Nam vất vả, lam lũ, cần cù, nhưng rất lạc quan yêu đời, biết gắn bó đoàn kết, biết nhường nhịn, hi sinh.
Trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, hình ảnh cây tre cũng được nhân hoá và tượng trưng cho các chiến sĩ cảnh vệ canh gác cho giấc ngủ của Bác, cho đất nước, dân tộc quây quần xung quanh Bác:
- Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
- Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bản thân việc nhân hoá cũng đã đạt hiệu quả biểu đạt. Vì thế không nhất thiết nhân hoá gắn liền với tượng trưng.
Ví dụ câu thơ của Bà huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Cỏi, cây, đá, lá, hoa, năm loại được nhân hoá như con người "chen" lấn nhau trong một câu thơ để thể hiện sự rậm rạp, hoang sơ của đèo Ngang. Không có một sự tượng trưng nào cả.
Nhiều bài thơ của Trần Đăng Khoa sử dụng nhân hoá rất đạt, rất thành công : Buổi sáng ở nhà em, Mưa, Đánh thức trầu, Vườn em, Cây dừa, Đám ma bác Giun, Tiếng võng kêu…Những câu thơ hồn nhiên mà thật sinh động, tinh tế:
- Chị tre chải tóc bên ao
Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương
Buổi sáng ở nhà em
- Kẽo cà kẽo kẹt
Cây na thiu thiu
Mắt na hé mở
Nhìn trời trong veo
Tiếng võng kêu
- Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi
Cây dừa
Một lối diễn đạt các nhà thơ hay dùng là sự tương phản. Tương phản về số lượng, về chất lượng, về không gian, về thời gian:
Em mười chín tuổi nghìn năm trước
Sao đến bây giờ mới hai mươi
Nghìn sau gặp lại…em hăm mốt
Môi, mắt, vòng tay vẫn thiên thần
Thiên thần- Nguyễn Trọng Tạo
Đây là sự tương phản giữa có và không:
Chỉ lòng anh chật bóng hình em
Và như thế anh lại càng đơn độc
Và như thế anh buồn phát khóc
Bởi có em mà không có em
Bóng buồn- Nguyễn Việt Bắc
Khổ thơ gợi nhớ bài thơ Hà Nội vắng em của Tế Hanh. Tế Hanh khai thác không gian thành phố vắng để đi đến cảm giác vắng đầy cả em- nghĩa là em vẫn ngự trị nơi không em, để được an ủi, thoả mãn.
Nguyễn Việt Bắc khai thác không gian nhỏ hơn và ảo hơn- không gian tình cảm, không gian lòng anh. Lòng chật bóng hình em. Tưởng là có nhưng hoá ra không. Bởi có em mà không có em. Càng có lại càng không, nên càng không thể an ủi, không thể thoả mãn, càng đơn độc "Hai người nhưng chẳng bớt cô đơn" (Xuân Diệu).
Sự tương phản tạo ra sự nhoè mờ, câu thơ càng lấp loáng, thú vị:
Nguyễn Trọng Tạo viết:
Hai đôi môi khát một thời tìm nhau
Chín can…rượu chẳng còn đâu
Còn em hoá rượu. Cúi đầu, anh say
Rượu cần
Chín can, rượu hết, nhưng không hết vì em đã hoá rượu. Hai đôi môi khát đâu chỉ có uống rượu, mà còn uống nhau. Vậy say đâu chỉ là say rượu. Mà rượu hết thì sao lại say rượu được. Vậy là say em. Say cúi đầu như kiểu Cao Chu Thần cúi đầu trước vẻ đẹp hoa Mai.
Vấn đề không phải là cứ dùng phương tiện và biện pháp tu từ thì câu thơ sẽ hay, sẽ đạt hiệu quả nghệ thuật. Dùng thế nào cho hay hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng của nhà thơ. Bởi vậy, không phải tất cả so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng.. đều cùng một chất lượng nghệ thuật. Chỉ có sự độc đáo mới là thước đo chính xác.
Ngoài chữ nghĩa, các phương tiện, biện pháp tu từ, các nhà thơ ưa tìm tòi sự mới mẻ của hình tượng. Hình tượng mới mẻ thường đem đến cho bài thơ một sức hấp dẫn mới. Chiếc áo đỏ cháy rực như ngọn lửa mà Nguyễn Mĩ đã phát hiện ra trong "Cuộc chia li màu đỏ" là hình tượng trung tâm toả sáng cả bài thơ.
Hình tượng núi cứ ba ngọn như chiếc đinh ba "Trụ trời trụ đất đứng nguy nga" trong bài thơ "Lên núi Ba Vì" là một phát hiện độc đáo của Phạm Tiến Duật về hình sông thế núi thể hiện tinh thần thượng võ cuả dân tộc.
Hình tượng "Đầu súng trăng treo" trong bài thơ "Đồng chí " của Chính Hữu là một hình tượng mới mẻ. Trăng treo vốn không mới lạ. Lí Bạch đời Đường, trong thơ đã thấy trăng treo. Trường lưu nhất phiến nguyệt. Quải tại Đông khê tùng - Còn mãi một vành trăng. Treo trên ngọn tùng phía đông dòng suối. Thời Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm cũng thấy mảnh trăng treo: Non Kì quạnh quẽ trăng treo. Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Nhưng trăng treo đầu súng là hình tượng vừa thực, vừa tượng trưng chỉ thấy trong thơ Chính Hữu. Đó là biểu tượng tình đồng chí sáng rỡ như vầng trăng, là biểu tượng khát vọng hoà bình, biểu tượng chính nghĩa ngời ngời của cuộc kháng chiến…
Hình tượng con Xà Mâu trong bài thơ Con Xà Mâu tội nghiệp của Thu Bồn: Tiếng sủa trung thành trở thành phản phúc- con Xà Mâu bị mai phục giữa hai làn đạn chéo súng cực nhanh. Là một hình tượng mới mẻ và ám ảnh.
Những hình tượng độc đáo trong thơ thường là hình tượng gợi sự liên tưởng bất ngờ, thú vị.
Xuân Diệu nhìn đất nước như một con tàu lớn mà mũi Cà Mau là mũi thuyền xé sóng:
Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền xé sóng mũi Cà Mau
Tố Hữu viết về mẹ Tơm, những người mẹ chở che Cách mạng :
Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời
Người đọc vừa thấy được sự vất vả, lam lũ, sự bình dị của những người lao động, đồng thời liên tưởng về sự cao đẹp, sáng ngời của những tấm lòng, lại thấy được cả sự biết ơn, trân trọng của người viết.
Về một đêm mưa kỉ niệm, nhà thơ Đoàn Thị Kí có câu thơ:
Mưa như trời đất chăng dây
Chúng mình cùng vướng, ai đây gỡ giùm
Đã có bao nhiêu là hình tượng mưa: mưa như chăng tơ, mưa như đánh trống, mưa như thác, mưa lèm nhèm, mưa lay phay, mưa nhập nhoà, mưa như khói qua chiều…Song mưa như trời đất chăng dây gơi lên một liên tưởng mới. Hoá ra Trời và Đất cũng hay nghịch, cũng chăng dây để bẫy người. Trong sợi dây mưa còn có cả sợi dây tơ hồng của ông Tơ, bà Nguyệt. Mà như vậy thì đôi trai gái kia vướng vào mưa, vướng vào sự thắt buộc của Tạo hoá thì có mà… giời gỡ! Câu thơ ai đây gỡ giùm vì vậy mà biết bao là ý nghĩa thắt buộc tự nhiên. Hình thức hỏi nhưng lại là khẳng định thiên duyên.
Nhà thơ Lê Thị Mây xây dựng hình tượng Gió quả phụ rất thành công trong bài thơ cùng tên. Đã có bao nhiêu là hình tượng Gió trong thơ. Và hình tượng quả phụ có thể ít hơn song cũng không phải là hiếm.
Song, Gió quả phụ - người Quả phụ-gió thì lần đầu tiên xuất hiện trong thơ Lê Thị Mây. Đó là tượng hình của những hi sinh, mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu trong và cả sau chiến tranh:
Gió- trầm ca- gió
Đấy là tóc của những người đàn bà chết bom
trong
thành phố
đấy là tóc của người đàn bà goá bụa nuôi con
Sau chiến tranh đã qua được mười năm.
Một ví dụ khác về sự liên tưởng do hình tượng thơ gợi nên. Đó là bài thơ Lá Diêu bông của Hoàng Cầm.
Chị ba con em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt chị không nhìn
Tay xoè ra là để ôm mặt, che mặt. Nhưng tác giả lại viết là phủ mặt. Bàn tay tựa như tấm giấy người ta dùng lúc lâm chung vậy. Phải chăng lúc ấy, bàng hoàng, kinh ngạc trước sự bền bỉ, chung tình của người con trai, chị cũng tựa như đã chết. Hay chính chị tự mình liệm đi những điều lí trí khô khan bấy lâu chế ngự tình cảm của mình?
Thơ hay thật muôn vẻ. Cũng có thể thơ hay ở giọng điệu, ở cách nói mới về những điều đã quen, đã cũ.
Mấy câu thơ sau của Phan Thị Thanh Nhàn hay chính là ở sự phát hiện, khái quát:
Các cụ ông say thuốc
Các cụ bà say trầu
Còn con trai con gái
Chỉ nhìn mà say nhau
Đám cưới ngày mùa
Nhưng cũng Phan Thị Thanh Nhàn lại hay ở sự bất ngờ khi phát hiện ra mình trong cô gái mình nhìn thấy:
Một cô gái xinh tươi
Ngồi sau xe mỉm cười
Tôi nhìn theo cô đấy
Chợt gọi thầm : tôi ơi!
Trần Thị Vân Trung trong bài thơ Tuổi mười sáu cũng chung một cách nhìn của Phan Thị Thanh Nhàn. Nhà thơ thấy lại mái tóc, ánh nhìn, nụ cười và cả sự chưa lớn của mình"Cái thời chưa lớn khôn. Mọi điều đều lạ lẫm. Cái thời chưa…dám hôn. Chỉ nhìn… mà say đắm". Và kết thúc thật bất ngờ:
Mùa xuân trôi quá vội
Để lại bao vấn vương
Nước mắt mờ hơi sương
Nhìn em mười sáu tuổi
Hoặc thơ nói về vẻ đẹp của các cô gái. Mỗi thời có một cách quan niệm về vẻ đẹp. Mỗi thời lại có cách ăn mặc, thời trang khác nhau. Bởi vậy nhà thơ bao giờ cũng có những đóng góp mới trong ngay cả chi tiết thơ.
Đây là vẻ đẹp của cô gái trong ca dao:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Nhưng đến Nguyễn Bính thì cô đã có sự thay đổi đáng kể:
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
áo cài khuy bấm em làm khổ tôi
Nào đâu cái yếm lụa sồi
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen
Chân quê
Trong thơ Phạm Công Trứ sau này, cô gái diện quần bò áo chẽn:
Về quê ăn tết vừa rồi
Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò
Lời thề cỏ may
Đến Nguyễn Việt Bắc thì cô gái đã thành một tay chơi có hạng mà các tay sành điệu cũng phải chào thua:
Con gái
Môi mọng chín
Mắt xanh đánh võng
áo ba lỗ
Soóc bò
Phóng Dream cong kim cây số
Ngỡ ngàng
Trong mỗi hình ảnh cô gái ấy ngoài chi tiết về áo quần, ăn mặc, đều có thái độ đánh giá của mỗi nhà thơ. Và sự độc đáo chính là ở thái độ cảm xúc và góc nhìn.
Nhà thơ Nguyễn Duy viết về vẻ đẹp những con đường Hà Nội:
Đường nào cũng lắm thương yêu
Lối nào cũng đẹp rất nhiều lứa đôi
Mưa trong nắng, Nắng trong mưa
Cũng có thể nghĩ tương tự như thế về những nẻo đường đi tìm vẻ đẹp của thơ. Đường nào, lối nào, hướng nào cũng có thể tìm thấy vẻ đẹp. Có vẻ đẹp rực rỡ, tưng bừng. Có vẻ đẹp khiêm nhường, bẽn lẽn. Có vẻ đẹp lồ lộ, có vẻ đẹp lấp ló, kín đáo. Có vẻ đẹp lực lưỡng, có vẻ đẹp mảnh mai. Có vẻ đẹp bắt mắt, sắc bén, có vẻ đẹp dịu dàng, mờ tỏ…
Những bước đường chúng ta vừa đi chỉ như là những bước dạo ban đầu trên miền thơ bát ngát.
Hà Nội, tháng 7/2001
Người gửi / điện thoại