VỊ 未 là Chưa, VỊ 味 là Mùi, VỊ 位 là Chỗ, VỊ 胃 là Dạ dày, VỊ 謂 là Bảo rằng, VỊ 爲 là Bởi vì, VỊ 彙 là Tập họp... Tất cả có đến 31 kết quả về chữ VỊ. Trong phạm vi bài viết nầy ta chỉ đề cập đến 7 chữ VỊ nêu trên mà thôi. Nào, ta bắt đầu bằng chữ VỊ là CHƯA nhé !
VỊ 未 là CHƯA. Theo "Chữ Nho... Dễ Học" VỊ thuộc dạng chữ Tượng Hình, có diễn tiến chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của một cây mầm, phía dưới là phần rể chôn dưới đất, phía trên là hình dáng của các lá mầm mới nhú CHƯA phát triển thành cành lá ; Nên, VỊ có nghĩa đầu tiên là CHƯA, như VỊ LAI 未來 là Chưa đến, Chưa tới. Ta có thành ngữ QUÁ KHỨ VỊ LAI 過去未來 có nghĩa : Những việc đã qua và những việc chưa đến, như câu :"Ông ta là thầy bói giỏi, biết được cả những chuyện QUÁ KHỨ VỊ LAI!". Nên...
VỊ 未 là CHƯA. Thường dùng để phủ định quá khứ và hiện tại, không phủ định được việc ở tương lai. Như câu nói :"Hôm qua đến nay tôi CHƯA ăn cơm", chớ không ai nói :"Ngày mai tôi CHƯA ăn cơm" cả ! Câu nói nầy không sai về nghĩa, nhưng sai về "Tập quán ngôn ngữ", vì nếu muốn phủ định cho một việc ở tương lai thì phải dùng từ BẤT 不 là KHÔNG, câu nói sẽ thành ra câu phủ định với nghĩa khẳng định hẵn hoi :"Ngày mai tôi KHÔNG ăn cơm". Ta thấy, chữ VỊ và chữ BẤT của chữ Nho cũng giống như là chữ CHƯA và chữ KHÔNG của ta trong tiếng Nôm vậy. Nên ta cần phân biệt cho rõ nghĩa các từ sau đây :
- VỊ LAI 未來 là CHƯA đến; còn BẤT LAI 不來 là KHÔNG đến.
- VỊ TẰNG 未曾 là CHƯA từng; còn BẤT TẰNG 不曾 là KHÔNG từng.
- VỊ TẤT 未必 là CHƯA chắc; còn BẤT TẤT 不必 là KHÔNG Chắc. BẤT TẤT còn có nghĩa là "Không cần thiết, Không cần phải". Trong bài thơ 《Ngô Cung Hoài Cổ 吴宫懷古》của Lục Quy Mông 陸龜蒙 đời Đường có câu :
吴王事事須亡國, Ngô vương sự sự tu vong quốc,
未必西施勝六宫. VỊ TẤT Tây Thi thắng lục cung !
Có nghĩa :
- Ngô vương Phù Sai làm việc gì cũng đưa đến mất nước cả, chớ...
- CHƯA CHẮC là tại Tây Thi đẹp hơn cả phi tần của sáu cung (mê hoặc) đâu !
Ngô vương mất nước tại mình,
Tây Thi CHƯA CHẮC nghiêng thành sáu cung !
VỊ TẤT Tây Thi thắng lục cung !
Còn thơ của Trịnh Bách Xương 鄭百昌 đời Minh thì có hai câu như sau :
富貴不必羡, Phú quý BẤT TẤT tiện,
貧賤不必嘆。 Bần tiện BẤT TẤT thán.
Có nghĩa :
- Giàu sang cũng KHÔNG CẦN PHẢI hâm mộ tự hào;
- Nghèo hèn cũng KHÔNG CẦN PHẢI than van oán trách.
VỊ 未 là CHƯA. VỊ HÔN 未婚 là Chưa kết hôn, VỊ HÔN PHU 未婚夫 là Chồng chưa cưới, VỊ HÔN THÊ 未婚妻 là Vợ chưa cưới; VỊ VONG 未亡 là Chưa chết, VỊ VONG NHÂN 未亡人 là "Người chưa chết" : Đây là lời tự xưng của những bà những cô chết chồng ngày xưa; Ý là : Chồng chết thì phải chết theo cho trọn đạo, nhưng vì phải nuôi dạy con thơ... nên phải sống hờ, chứ đáng lẽ thì phải chết theo chồng rồi, cho nên mới xưng là "Người Chưa Chết"(VỊ VONG NHÂN). Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, nàng cung phi thất sủng tự ví mình phòng không chiếc bóng như là kẻ đã bị chết chồng vậy :
Suy di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người VỊ VONG.
Còn VỊ NGỘ 未遇 là "Chưa gặp", ý nói là chưa gặp thời cơ, như một câu trong bài hát nói "Kẻ Sĩ" của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ là :
Lúc VỊ NGỘ hối tàng nơi bồng tất,
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn.
Có nghĩa :
- Lúc CHƯA GẶP THỜI thì giấu mình trong các gian nhà cỏ; và
- Thanh thản như là Lã Vọng câu trên sông VỊ 渭 (tên một con sông ở Thiểm Tây) và Y Doãn cày ruộng ở đất Sằn vậy !
VỊ 未 khi được đặt ở cuối câu thì lại trở thành một Nghi Vấn Tự dùng để hỏi, như bài "Tạp Thi" của Thi Phật Vương Duy 王維 đời Đường sau đây :
君自故鄉來, Quân tự cố hương lai,
應知故鄉事。 Ưng tri cố hương sự.
來日綺窗前, Lai nhựt ỷ song tiền,
寒梅著花未? Hàn mai chước hoa VỊ ?
Có nghĩa :
Bạn từ cố hương, từ quê nhà đến đây, chắc chắn là rất rành về chuyện ở quê nhà. Vậy, xin được hỏi bạn rằng, cái ngày mà bạn rời quê hương đến đây, thì chậu hàn mai bên song cửa sổ đẹp (ỷ song) đã nở hoa CHƯA ?
Bạn từ quê nhà đến,
Chắc rõ chuyện nắng mưa.
Ngày đi bên song đẹp,
Mai vàng nở hoa CHƯA ?