bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 0855890003

CÁM ƠN ANH ĐỨC BÌNH CỘNG TÁC!CHÚC ANH VUI KHỎE!

 

ĐỨC BÌNH

Xin cám ơn BAN BT trang TÁC PHẨM VÀ BẠN ĐỌC !

 

VŨ NHO 085 589 0003

Tôi không xem chương trình VUA TIẾNG VIỆT. Cứ theo những gì bác Đinh Y Văn tường thuật thì đích thị là TRÒ CHƠI Đoán từ. Người nhìn từ trong Từ Điển, nói "chữ" đầu của từ, rồi nói "chữ" sau. Người kia...

 

Đinh Y Văn

Trân trọng cảm ơn Tổng biên tập đã dành sự quan tâm đến bố con cụ Đinh Y Văn!

 

Đinh Y Văn

Xin có lời thưa lại, hình như cụ ĐYV bị quy oan là “lơ mơ” ?! Tên chính thức vòng 2 chương trình Vua tiếng Việt là GIẢI NGHĨA, không phải là ĐOÁN TỪ bác ạ.

 

vũ nho 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ BÁO, NHÀ NGHIÊN CỨU NGHIÊM THỊ HẰNG!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 45
Trong ngày: 361
Trong tuần: 1607
Lượt truy cập: 779259

ĐỌC VÀ HỌC THƠ XUÂN DIỆU

NGÀY XUÂN ĐỌC (VÀ HỌC) THƠ CỦA CÁC NHÀ THƠ LỚN VIỆT NAM

 

ĐỌC VÀ HỌC THƠ  XUÂN DIỆU

          BÙI MINH TRÍ

 

Thơ mới - chim Bằng cất tiếng vang

“Yêu là chết” - tiếng sét kinh hoàng!

“Biết bao hoa đẹp trong rừng thắm

Đem gửi hương cho gió phũ phàng!”

*

“Muốn tắt nắng - màu đừng nhạt mất”

“Yêu sai duyên, mến chẳng nhằm người”

Đã nghe trong gió luồn hơi rét
Không hiểu “Vì sao” yêu suốt đời

*

“Sáng hội non sông” - “Ngọn quốc kỳ”

“Sao vàng” soi ” sáng” bước ta đi

“Mẹ con”  vui dưới  “Ngôi sao” mới

Vạn gánh “Riêng chung” cất bước đi

*

Đây “Mũi Cà Mâu”  - “Hai đợt sóng”

“Tôi giàu đôi mắt” ngẩng đầu trông

“Hồn tôi đôi cánh”  làn hương thoảng

 Đẹp cảnh bồng lai  “Một khối hồng”

*

“Chầm chậm đừng quên”  lời  nối kết

“Ngọt bùi chia sẻ, đói no trao”

“Thanh ca”  réo rắt thơ hòa nhạc

“Trở dạ Việt Nam”  một sắc đào

 

“Ông Hoàng”  muôn điệu áng “thơ tình”

Hạnh phúc trớ trêu ngán nỗi mình

Hoa trắng một vành trên nấm mộ

Nước non còn đó mãi  tôn vinh.

Bùi Minh Trí

Theo Bách Khoa toàn thư

Xuân Diệu (sinh 2 tháng 2 năm 1916 – mất 18 tháng 12 năm 1985). Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại quê mẹ Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ (trong tộc phả ghi là Ngô Xuân Thụ) và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp. Xuân Diệu sống ở Tuy Phước đến năm 11 tuổi.

Năm 1927, Xuân Diệu xuống học ở Quy Nhơn. Sau đó Xuân Diệu ra Huế học 1 năm (1936 – 1937) đến khi tốt nghiệp trường tú tài Khải Định. Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938 – 1940).

Cuối năm 1940, ông vào Mĩ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức (tham tá thương chánh), Năm 1942, ông quay lại Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 – 1944, thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, ông được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình". Ông từng được Hoài Thanh và Hoài Chân đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam (1942).

Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" (Hoài Thanh), "ông hoàng của thơ tình".Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào "Thơ Mới". Tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), truyện ngắn Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945).

Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác của ông ca ngợi tình yêu và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống, niềm vui và đam mê sống. Và ca ngợi tình yêu thì làm sao mà không ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi thiên nhiên là tổ ấm và cái nôi của tình yêu. Và Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc đến đau đớn nỗi thời gian trôi chảy, sự mong manh của đời người cũng như lòng khát khao vĩnh cửu, tất cả đã được diễn tả bằng những câu thơ xúc động, có khi đậm đà triết lý nhân sinh.

Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh., đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản.. Sau khi theo Đảng (1945), thơ ông chủ yếu ca ngợi Đảng Lao động Việt NamHồ Chí Minh, ông không còn sáng tác thơ tình nhiều như trước

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt BắcTrong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng. Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày Nay và Tiên Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một "dòng thơ công dân". Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu biểu là: Ngọn quốc kỳ (1945), Một khối hồng (1964), Thanh ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983). Ngoài làm thơ, Xuân Diệu còn là một nhà vănnhà báonhà bình luận văn học

.Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.

Là cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.

Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983.

Ông qua đời năm 1985.

.Tác phẩm

Thơ

Văn xuôi

  • Phấn thông vàng(1939, truyện ngắn), 17 truyện
  • Trường ca(1945, bút ký), 9 bài
  • Miền Nam nước Việt(1945, 1946, 1947, bút ký)
  • Việt Nam nghìn dặm(1946, bút ký)
  • Việt Nam trở dạ(1948, bút ký)
  • Ký sự thăm nước Hung(1956, bút ký)
  • Triều lên(1958, bút ký)

Tiểu luận phê bình

  • Thanh niên với quốc văn(1945)
  • Tiếng thơ(1951, 1954)
  • Những bước đường tư tưởng của tôi(1958, hồi ký)
  • Ba thi hào dân tộc(1959)
  • Phê bình giới thiệu thơ(1960)
  • Hồ Xuân Hươngbà chúa thơ Nôm (1961)
  • Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ(1961)
  • Dao có mài mới sắc(1963)
  • Thi hào dân tộc Nguyễn Du(1966)
  • Đi trên đường lớn(1968)
  • Thơ Trần Tế Xương(1970)
  • Đọc thơ Nguyễn Khuyến(1971)
  • Và cây đời mãi xanh tươi(1971)
  • Mài sắt nên kim(1977)
  • Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy(1978)
  • Các nhà thơ cổ điển Việt Nam(tập I, 1981; tập II, 1982)
  • Tìm hiểu Tản Đà(1982).

Dịch thơ

  • Thi hào Nadim Hitmet(1962)
  • V.I. Lênin(1967)
  • Vây giữa tình yêu(1968)
  • Việt Nam hồn tôi(1974)
  • Những nhà thơ Bungari(1978, 1985)
  • Nhà thơ Nicôla Ghiđen(1982).[12]

Tác phẩm được phổ nhạc

  • Yêuđược Châu Kỳ phổ thành Đừng nói xa nhau.
  • Nguyệt cầmđược Cung Tiến phổ nhạc.
  • Vì saođược Phạm Duy phổ thành Mộ khúc.

Giải thưởng và tôn vinh

Giải thưởng 

Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).

Tôn vinh

Tên của ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội, một con đường ở thành phố Quy Nhơn (Bình Định), và cũng được đặt cho một trường trung học phổ thông ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định và một trường THCS tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại thành phố Đồng HớiQuảng Bình có con đường mang tên Xuân Diệu ở phường Nam Lý

Ông được lập nhà tưởng niệm và nhà thờ ở làng Trảo Nha, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (bên cạnh đường lên Ngã Ba Đồng Lộc

  

 

In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)