ĐÔI NÉT VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA NGƯỜI VIỆT
PGS.TS. Vũ Nho
Ăn uống là một hoạt động quan trọng của động vật để duy trì sự sống. Đối với con người cũng vậy. Hoạt động ăn uống diễn ra hàng ngày và có từ khi con người còn chưa có chữ viết, thậm chí còn ăn lông ở lỗ. Bởi vậy, không lạ gì, khi bắt đầu sáng tác văn thơ dân gian để truyền miệng, con người đã chú ý đến hoạt động này. Ăn cái gì, ăn như thế nào, cảm giác ăn ra sao. Và ăn thế nào cho ngon, cho đẹp, cho có văn hóa, cho thanh lịch.
Người Việt có rất nhiều câu tục ngữ, ca dao về chủ đề này. Thử xem người xưa đã quan niệm thế nào về ăn uống.
Ăn là điều được nói đến khá nhiều trong tục ngữ.
Trong cuốn “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”, các tác giả đã kê ra gần 400 câu tục ngữ thành ngữ có từ ĂN. (Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào – Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn Hóa, in lần thứ tư, 2000)
Trong ca dao thì số lượng cũng phong phú không kém.
Lấy anh thì lấy đến già mới thôi
Dành cơm nuôi mẹ, mẹ già yêu răng
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng
Thương sao cho được vợ người mà thương
Có ai lấy tớ thì khiêng tớ về
Ăn sung sung chát ăn đào đào chua
Biết bao điều mà cha ông ta đã gửi gắm trong những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao thể hiện quan niệm và thái độ văn hóa đối với sự ăn uống.
Chúng tôi muốn khảo sát một vài vấn đề quan trọng mà thôi.
Ăn những món thông thường , nhưng cũng cần biết những thứ nào là ngon, là tốt cho xứng với đồng tiền bỏ ra. Có những câu tục ngữ định giá các thứ đó:
- Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
Tương Bần, húng Láng có gì ngon hơn?
Vải Quang, húng Láng ngổ Đầm
Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây
Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Có gò Ngũ nhạc có con sông Hồng
Không phải chỗ nào cũng có thể ăn. Miếng ăn quan trọng thật, nhưng không thể ăn bằng mọi giá, mọi cách. Người Việt trọng danh dự không “ăn chạ”, “ăn chực”. “Ăn có mời làm có khiến”. Nghĩa là phải có lời MỜI thì mới ăn. Vì rằng thái độ trân trọng của người đãi ăn là rất quan trọng. Bởi thế mới có quan niệm “Lời chào cao hơn mâm cỗ”!
Ăn uống phải lịch sự, phải thể hiện văn hóa khi ăn. Không ai ưa và không ai chấp nhận kiểu “ăn tục nói phét” , “ăn không nói có”, “ăn cháo đái bát”, “ăn thủng nồi trôi rế”…
Ăn uống phải nhìn trước nhìn sau, phải có ý tứ. Cho nên ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Trong hoàn cảnh lương thực thực phẩm thiếu thốn thì việc ý tứ, nhường nhịn người cao tuổi là một thể hiện văn hóa, đạo đức của con người:
Đói lòng ăn hạt chà là
Dành cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Nhường nhịn chồng con là cái nết đẹp của người phụ nữ trong ăn uống:
Miếng nạc thì để phần chồng
Miếng xương mẹ gắp, miếng lòng phần con
Ăn uống phải tiết kiệm , không hoang phí để còn phòng lúc đói ngày ba tháng tám.
Lúc còn thì phải ăn de
Đến khi hết gạo thì dè mới ra
Hoặc như đồng bào Thái dặn dò:
Ăn phải dành, có phải kiệm
Đừng ăn quá miệng, đừng diện quá đáng
Ăn uống đạm bạc thì bình an, bình thường. Ăn uống sang trọng thì lo lắng. Bởi vì rất khó mà có được miếng ăn như thế, khi mọi người đều nghèo. Hoặc là phải lo mưu mẹo để giữ miếng với chức sắc, quan lại nhòm ngó. Hoặc là lo mánh mung để có thể hơn người. Thành ra:
Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy
Người Việt chấp nhận việc ăn uống đơn giản, thậm chí là nghèo nhưng tinh thần thanh thản, hơn là cuộc sống sung túc hơn nhưng không hòa thuận, mặt nặng mày nhẹ, mất đoàn kết trong gia đình:
Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.
(Tất nhiên, khi đời sống xã hội phát triển thì sẽ có bốn mức để cho người ta lựa chọn : 1. Ăn cá thịt mà hòa thuận. 2. Ăn cơm rau mà hòa thuận. 3. Ăn cá thịt mà cãi nhau.4. Ăn cơm rau mà cãi nhau). Rõ ràng đem so sánh tinh thần và vật chất, thì người Việt vẫn nghiêng về tinh thần hơn là vật chất.
Người Việt trong bữa ăn gia đình có một bát nước chấm chung. Đấy cũng là một cách thể hiện sự hòa đồng, sự đoàn kết và “chia ngọt sẻ bùi”. Gần đây, một số cho rằng cần học phương Tây, mỗi người một bát nước chấm cho lịch sự. Nên nhớ rằng bát đĩa khi xưa không phải là nhiều như bây giờ. (Tôi còn nhớ khi dẫn sinh viên đi thực tập ở trường cấp 3 Bắc Cạn, thủ phủ của tỉnh Bắc Cạn cũ, khi đó nhập với Thái Nguyên là Bắc Thái, quãng năm 1973, liên hoan tạm biệt nhà trường, không đủ chén để uống rượu, chúng tôi rót rượu ra bát. Uống xong thì dùng bát lấy cơm). Học phương Tây cũng tốt thôi. Nhưng mâm cỗ chắc vẫn phải có các bát đĩa thức ăn chung, chứ không thể làm sáu bát to, mỗi bát có đủ thịt, rau, cá, canh cho mỗi người để “lịch sự”!
Một điều cũng đáng chú ý là khi bắt đầu ăn, bao giờ cũng có chuyện “mời”. Mời trước nhất là người cao tuổi : ông, bà, khách (tùy tuổi tác) cha, mẹ, anh, chị.
Đấy là một phong tục thể hiện thái độ văn hóa. Người theo đạo Kito thì làm dấu thánh cảm tạ Chúa trước khi ăn. Một số dân châu Âu thì chúc “ ngon miệng”!
Rõ ràng, cái sự ăn có rất nhiều điều để bàn bạc, suy ngẫm. Bởi vì ăn uống, hay gọi là ẩm thực phản ánh văn hóa của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và mỗi dân tộc.
Một điều không thể không chú ý là cách chế biến thức ăn, cách thêm các gia vị cho món ăn thêm ngon, thêm hấp dẫn cũng thể hiện trình độ văn hóa ẩm thực của người xưa. Người Việt dùng rất nhiều loại gia vị khác nhau để chế biến tức ăn.
Nhiều loại rau thơm như húng quế, húng dũi, tía tô, kinh giới, hành, thì là, mùi tàu...
Gia vị thực vật như ớt, hạt tiêu, sả, hẹ, kiệu, tỏi, gừng, lá sung, chanh quả hoặc lá chanh non...
Gia vị lên men như mẻ, mắm tôm, bỗng rượu, dấm thanh hoặc kẹo đắng, nước cốt dừa...
Thức gì, nấu với những gì thì hợp, thì ngon.
Chẳng hạn như dưa khú là dưa bị hỏng, bị kém phẩm chất. Nhưng nếu biết cách thì vẫn trở thành món ngon:
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
Hoặc kinh nghiệm về món ốc:
Cái nước nó xám nhưng mùi nó ngon.
Một số món ăn dân dã đơn giản mà rất ngon:
Người chết nửa mùa cũng sống lại mà ăn
Gái muốn mĩ miều, tìm lá đinh lăng
Thế gian có kẻ mất chồng như chơi
Bài ca dao được nhà nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu sưu tầm cho thấy các loại thịt thì cần những gia vị gì cho phù hợp:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi mẹ hỡi mua tôi đồng riềng
Con trâu cười ngả cười nghiêng
Tôi không ăn riềng, mua tỏi cho tôi.
Thịt gà luộc ăn với lá chanh, thịt lợn nấu với hành, thịt cho nấu riềng, thịt trâu xào tỏi.
Khái quát như vậy thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật ẩm thực.
Bây giờ chúng ta chuyển qua sự uống.
Uống được bàn ở đây không phải là chuyện uống nước lọc hay uống nước chè, nước vối. Tất nhiên uống nước chè cho đúng cách cũng là thể hiện văn hóa ẩm thực. Những nước Á Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, cả Việt Nam cũng đã nâng việc uống chè (trà) lên thành “trà đạo”. Người Việt đã tổng kết trong câu tục ngữ mới về chè “nhất nước, nhì pha, tam trà, tứ ấm”.
Chỉ xin xem xét việc uống rượu mà thôi.
Theo báo mạng thì Việt Nam là một trong những nước tiêu thụ nhiều bia rượu nhất thế giới. Thành tích này chẳng có gì đáng tự hào, mà là một điều cần suy nghĩ. Uống nhiều, tốn tiền, hại sức khỏe và nhiều cuộc ẩu đả, nhiều tai nạn giao thông khi các vị ma men liêng biêng lên xe và cầm lái. Gần đây nghị định 100 về phạt người uống rượu bia được cả nước đồng tình, hoan nghênh. Vì giúp giữ cho việc uống trong ăn nhậu ở mức chừng mực.
Chúng ta có loại rượu chưng cất và loại không chưng cất. Riêng loại rượu chưng cất cũng có nhiều địa phương có rượu ngon nổi tiếng cả nước như:
Rượu làng Vân (ở Bắc Ninh, còn gọi là "Vân hương mĩ tửu"), rượu Kim Sơn ở Ninh Bình, rượu Bầu Đá (Bình Định), Rượu Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Rượu San Lùng, Rượu Thanh Kim làm từ mầm thóc nếp (Lào Cai), Rượu ngô Bắc Hà, Rượu Xuân Đài, Rượu Xuân Thạch (Trà Vinh), Rượu Hồng Đào (Quảng Nam), Rượu Gò Đen (Long An),...
Cũng có những câu ca ngợi rượu cùng với thức nhắm ngon:
Rượu tăm thịt chó nướng vàng
Mời đi đánh chén cách làng cũng đi
Rượu ngon với thịt chó là món khoái khẩu của những người thích nhậu. Chả thế mà có công thức viết tắt RTC tức là Rượu thịt chó.
Rượu không uống một mình, phải “Trà tam, rượu tứ”, và quan trọng là uống với bạn tốt, bạn quý:
Không mua không phải không tiền không mua
Có những lời cảnh báo về chuyện rượu:
Rượu nồng, dê béo, gái vừa đang tơ
Không nên ép rượu – “rượu bất khả ép”, không nên uống quá nhiều:
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Tửu nhập, ngôn xuất . Rượu vào lời ra. Trước còn thuận hòa, sau hóa đánh nhau.
Rượu chè nơi quán xá cũng dễ làm hư hỏng con người, quên tình quên nghĩa:
Mảng vui quên hết lời em dặn dò
Hoặc nữa :
Say hoa đắm nguyệt quên câu ân tình
Nặng nề hơn là lời phê phán rượu chè, trai gái:
Mảng theo con đĩ bỏ bê việc nhà
Phê phán tệ say rượu nói dài, nói dai, nói dại:
Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày
Người ta đã cảnh báo về việc uống rượu nhiều bằng một tổng kết:
Hai li uống cạn lòng sầu
Ba li mũi chảy tới râu
Bốn li ngồi đâu gục đó
Năm li cho chó ăn chè.
Người Việt đã tổng kết và chia người uống rượu thành “tiên tửu” và “tục tửu”. Tiên tửu là uống rượu có văn hóa, uống để vui, để lai láng cảm hứng yêu đời. Tục tửu là uống say, uống nói lảm nhảm, linh tinh, uống bí tỉ,…
Bây giờ trong các quán nhậu, vẫn gặp cảnh “ Dô! Dô! Dô!” “trăm phần trăm!”. Đó là cách uống tục tửu mà người ta cứ tưởng là hay, là “khí thế”!
Chuyện ẩm thực là câu chuyện dài. Ăn uống lịch sự là biểu hiện của văn hóa. Văn hóa ẩm thực hình thành trên điều kiện kinh tế, xã hội, thói quen và cả tín ngưỡng . Cùng với văn hóa thời trang, văn hóa đời sống, văn hóa giao tiếp và văn hóa vật thể làm nên nét văn hóa riêng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Hà Nội, mùa chống dịch Covid 2020
Người gửi / điện thoại