Làng
trường ca mini của Phạm Thường Dân
1.Lập làng
Cây gạo đình Trung có tự bao giờ?
Trong Thần phả làng tìm không thấy
Sừng sững níu thời gian đứng dậy
Làm chứng nhân cho mảnh đất này.
Vài gia đình quần tụ về đây
Đấu cật chung lưng khai hoang vỡ hóa
Những rặng thông lấn ra biển cả
Thành Dưỡng Thông tên gọi bây giờ.
Từ Sàn Nồi đến miếu Tam Cờ
Chín gò đống – chín con rồng theo mẹ
Một con lạc miếu Nam - trại lẻ
Để người làng chẳng dễ hòa nhau.
Tích đức vun gốc vững làm giàu
Chùa Đông,chùa Tây chuông chiều bảng lảng
Năm hướng đình nguy nga hoành tráng
Nề nếp, kỷ cương đời lại truyền đời.
Mênh mông cánh cò ruộng mật bờ xôi
Dòng sông Sứ êm đềm vòng tay mẹ
Mê gà Rãng khách sành chơi đổi nghé
Mèo đẻ trong sáo diều chuyện thật mười mươi.
Học chữ thánh hiền lập nghiệp, làm người
Có nên duyên cũng nhờ tại phận
Vinh qui chật đường trống chiêng võng lọng
Thi trượt hổ mình phẫn chí bỏ thân.
Cửa Tây lập Văn chỉ đón chiếu vua ban
Đất văn hiến lập làng văn hiến
Bàn tay vàng nghề mây tre nức tiếng
Nét nét hoa văn tinh xảo rỡ ràng.
2.Độc lập
Pháp Nhật kéo về súng ống nghênh ngang
Lùng sục xì xồ bắt người, cướp của
Đảng bí mật nhen từng ngọn lửa
Thắp niềm tin kháng chiến trường kỳ.
Những người nông dân củ mỉ cù mì
Chiều mả Bụt rũ bùn đen đứng dậy
Giông bão cũng nổi lên từ đấy
Cầm búa liềm đi đòi lại bình an.
Tháng ba Ất dậu một dấu chấm than!
Hoa gạo đỏ trời nhà nhà không hạt gạo
Nấm mồ chôn chung người đói cơm rách áo
Lũ lượt bỏ làng, phiêu bạt, lang thang...
Dưới gốc gạo này năm xưa chống càn
Thây Pháp ngụy ngổn ngang la liệt
Đứa tháo chạy chưa thôi chết khiếp
"Dẫu nửa người" cũng quyết tiến công.
Chúng tôi lớn lên có nửa non sông
Ruộng quả thực góp chung tay hợp tác
Những suy nghĩ cũng mau đổi khác
Bố và con là đồng chí cùng nhau.
Đền, miếu, đình, chùa tàn dư ăn sâu
Đào tận gốc trốc tung tận rễ
Nền văn hóa mấy nghìn năm tráng lệ
Ngỡ vĩnh hằng thoáng chốc hóa phù vân.
Mình vì mọi người liêm, chính, kiệm,cần
Bình xét chia nhau cái kim,sợi chỉ
Đời túng thiếu mà sao vui thế
Ai cũng như ai không phân biệt giàu, hèn.
"Thép đã tôi" trong lửa luyện rèn
Bao lớp học trò từ chối vào đại học
Trình huyết đơn lên đường đánh giặc
Giải phóng miền Nam vang khúc hùng ca.
Chúng tôi đi để lại quê nhà
Tình thương các cụ già, đàn bà, con trẻ
Nhớ lời thề hơn là lời mẹ
Chưa hết thù chưa trở lại quê hương.
Quân không thiếu một người, thóc không thiếu một cân
Góp lửa hậu phương chống chiến tranh phá hoại
Những thần sấm,con ma, B52... cháy rụi
Lát đường xe tăng nghiền nát phủ đầu rồng!
4.Hội nhập
Tôi trở về quê ngày thống nhất non sông
Tựa lưng vào cây nhìn màu hoa đỏ
Để có hôm nay máu bao người đã đổ
Bao lớp trẻ trai nằm lại chiến trường.
Hướng tới tương lai khép lại đau thương
Cùng cả nước quê tôi tưng bừng hội nhập
Những địa danh đói nghèo xưa dần mất
Diện mạo nông thôn thay đổi từng ngày
Chốn tâm linh lại tôn tạo dựng xây
Trường, trạm,điện, đường khang trang như phố
Nhiều người giàu lên, bớt người nghèo khó
Tiếng máy trên đồng hòa tiếng nhạc mobile.
Những trai thanh,gái lịch hôm nay
Giỏi vi tính, chơi game, chít chát
Toán quốc tế vẫn giành giải nhất
Bia tiến sĩ chưa xây danh sách đã nối dài
Đất kiệt linh sinh lắm hiền tài
Thời nào cũng có người quyền cao chức trọng
Đồng mẫu lớn tầm nhìn mở rộng
Thay mới nông thôn làm cuộc đổi đời.
Người Dưỡng Thông ở khắp mọi nơi
Khác chính kiến, chung lòng yêu làng xã
Trăm sông đều đổ về biển cả
Xây dựng quê hương ngày một đẹp giầu.
Đã đi nhiều nhưng chưa thấy đâu
Cổ thụ sóng đôi như làng tôi đó
Cây như người nghĩa tình gắn bó
Dẫu lắm đổi thay chẳng thể chia xa.
Tôi lại về ngắm hoa gạo tháng ba
Cây luôn trẻ tưng bừng thắp lửa
Em bên tôi nụ cười rạng rỡ
Vẫn vẹn nguyên cái thuở ban đầu