Nét ngài hay nét người?
PGS.TS. Vũ Nho
Tôi nhận được một thư điện tử của một em học sinh, trong đó nêu câu hỏi như sau :
“Trong sách Ngữ văn 9, tập 1, hai câu thơ miêu tả Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Em đọc thấy chú thích : nét ngài nở nang ( nét ngài : nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu “ mắt phượng mày ngài”.
Cô giáo em lại giảng rằng ngài là tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, có nghĩa là người. Nét ngài nở nang nghĩa là nét người nở nang.
Thầy có thể giải thích cho em phải hiểu như thế nào mới đúng ạ?”
Quả thật, đây là một câu hỏi khó. Cũng đã có một số người bàn về câu thơ này. Vấn đề là hiểu nét ngài chỉ lông mày hay nét ngài chỉ nét người. Tôi cũng đã nghĩ ngợi nhiều về chuyện trên. Nay nhân câu hỏi này, muốn trình bày những điều đã nghĩ.
Trước hết, trong phương ngữ Nghệ Tĩnh, đúng là từ ngài có nghĩa là người. Tôi nhớ, trong một bài báo, nhà thơ Vương Trọng đã đề nghị hiểu nét ngài là nét người. Tác giả Hữu Đạt, trong cuốn sách Ngôn ngữ thơ Việt Nam, nxb Giáo dục 1996 cũng đề nghị cách hiểu này. Tác giả viết: “Nghĩa là “lông mày” không thể đi với “nở nang” được. Giữa chúng không có sự tương hợp về ý nghĩa, ngữ pháp. Còn hiểu là “nét người” thì câu thơ trở nên cân đối và rất chỉnh:
Khuôn trăng đầy đặn, nét người nở nang
Hai vế cân xứng và đi sóng đôi với nhau”. (trang 182).
Chắc chắn là cô giáo của em học sinh đã đọc bài viết của nhà thơ Vương Trọng hay sách của tác giả Hữu Đạt nên mới giảng như thế.
Ban đầu tôi cũng thấy cách giải thích như vậy là có lí. Nhưng sau, nghĩ lại thì thấy tuy có vẻ hợp lí nhưng lại bất ổn. Vấn đề là ở chỗ cô Vân, cô Kiều đều là những tiểu thư khuê các. Vóc dáng, nét người các tiểu thư không thể là nở nang. Cụ Nguyễn Du đã tả hai cô:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Mai cốt cách là cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao.
Chỗ khác cụ viết về Kiều: Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Như vậy, quan niệm về cái đẹp của thiếu nữ khuê các là vóc dáng gầy, mảnh dẻ, thanh tao. Chả thế mà người đẹp được ví với liễu yếu, đào tơ. Gọi theo từ ngữ hiện đại thì người đẹp có dáng người dây. Thật xa lạ với các cụ cái đẹp khỏe khoắn và có phần chân mộc của thôn nữ “nét người nở nang”.
Mặt khác, cũng trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du còn viết:
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Cụ Đào Duy Anh giải thích “Dùng từ nét ngài ở đây để chỉ sự nhăn lông mày như Tây Thi”. (Từ điển Truyện Kiều, nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1974, trang 264).
Ấy là chưa kể cũng trong Truyện Kiều, khi tả các cô gái cùng làm nghề kĩ nữ trong lầu xanh như Kiều, cụ Nguyễn Du viết:
Bên thì mấy ả mày ngài
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi
Như vậy nét ngài, hay mày ngài đều phải hiểu là ngài chứ không thể hiểu là người được. Đặc biệt là trường hợp mày ngài.
Bên trên đã nói là vấn đề khó. Bởi vì nếu chỉ có ba trường hợp Nguyễn Du viết nét ngài và mày ngài về cô Vân, cô Kiều và các cô gái kĩ nữ khác ( Xin mở ngoặc nghề kĩ nữ đòi hỏi phải là người đẹp mới có thể thu hút khách) thì không còn gì phải băn khoăn. Oái oăm ở chỗ khi miêu tả Từ Hải, một vị anh hùng, cụ lại cũng tả:
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Không chỉ tả một lần gặp đầu tiên, khi Từ Hải thành công về đón Kiều:
Rỡ mình là vẻ cân đai
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa
Vậy là Từ Hải cũng có mày ngài. Các cô kĩ nữ khác cũng có mày ngài. Nếu mày ngài là đẹp, thì chả lẽ cụ Nguyễn Du lại tả Từ Hải có vẻ đẹp của thiếu nữ, kết hợp với cái đẹp oai phong của hùm, của én hay sao?
Đến đây thì tôi tra cứu Đoạn trường tân thanh – Truyện Kiều đối chiếu Nôm - Quốc ngữ của cụ Thế Anh (nhà xuất bản Văn học, 1999) xem thế nào.
Trong 11 bản Nôm mà cụ Thế Anh đối chiếu thì:
Câu thơ 20 : Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
- Bản Kim Vân Kiều tân tập (1906) chép: khuôn lưng, 10 bản khác chép khuôn trăng.
- Có ba bản là Kim Vân Kiều tân truyện (Abel des Michels dịch ra tiếng Pháp 1884), Kim Vân Kiều tân truyện, Phúc Văn Đường tàng bản (1932) và Bản Kiều do cụ Chu Phi Bằng chép tay ở Diễn Châu, Nghệ An, chép nét người. Còn lại 8 bản khác chép nét ngài.
Câu thơ 1213 : Khi khóe hạnh khi nét ngài
- Cả 11 bản đều chép nét ngài như nhau.
Câu thơ 927 : Bên thì mấy ả mày ngài
- Cả 11 bản đều chép như nhau.
Câu thơ 2167 : Râu hùm, hàm én, mày ngài
- Có hai bản Thúy Kiều truyện tường chú (1974) và Kim Vân Kiều quảng tập truyện (1916) chép hàm én. 9 bản khác chép cằm én.
- Mày ngài thì cả 11 bản chép như nhau.
Câu thơ 2274: Hãy còn hàm én mày ngài như xưa
- Cả 11 bản đều chép như nhau.
Như vậy mày ngài trong cả ba câu thơ, 11 bản Kiều đều chép như nhau.
Nét ngài ở câu 20 thì có 3 bản chép nét người, còn 8 bản chép nét ngài.
Nét ngài ở câu 1213 thì cả 11 bản chép như nhau.
Có thể kết luận sơ bộ: nét ngài là nét lông mày cong, như râu con ngài (con bướm tằm) mảnh, thanh, xinh đẹp.
Mày ngài có hai nghĩa, nghĩa 1 cho câu thơ 927, nghĩa 2 cho câu 2167 và 2274.
Mày ngài ở câu thơ 927, cụ Đào Duy Anh giải thích: “1. Mày ngài : lông mày như râu con ngài, chữ Hán là “nga my”, tức lông mày nhỏ mà dài của người đẹp; sau dùng từ “nga my” tức mày ngài để chỉ người đẹp. Ví dụ: Mấy ả mày ngài, câu 927. (Từ điển Truyện Kiều, sách đã dẫn, trang 236).
Còn mày ngài của Từ Hải ở câu thơ 2167 và 2274 thì cần hiều là “my nhược ngọa tằm” (Lông mày như con tằm nằm ngang). Cụ Đào Duy Anh giải thích “ 2. Cũng có nghĩa là lông mày rậm, tướng mạo của người trượng phu. Có lẽ theo câu “my nhược ngọa tằm” của sách tướng, nghĩa là lông mày giống con tằm nằm. (Từ điển đã dẫn, trang 236, 237).
Theo thiển ý của tôi thì nên xếp hai từ mày ngài của phụ nữ và mày ngài của Từ Hải là hai từ đồng âm. Một từ được tạo thành từ gốc nga my tức là râu con bướm tằm để chỉ lông mày đẹp của phụ nữ. Còn từ kia được tạo thành từ gốc “my nhược ngọa tằm” chỉ tướng mạo của người trượng phu. Hai từ đồng âm này khác nghĩa nhau là điều đương nhiên. Nếu coi là một từ có hai nghĩa như cụ Đào Duy Anh chú thì có lẽ không thật ổn.
Còn nét ngài thì chắc chắn là nét lông mày, vì ngoài quan niệm thẩm mĩ của người xưa, câu tả nét ngài nở nang, còn có câu thơ Khi khóe hạnh, khi nét ngài không cho phép hiểu khác!
Hà Nội, 24/4/2011
Tài liệu tham khảo:
Ngữ văn 9, tập 1, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2005.
Đào Duy Anh - Từ điển Truyện Kiều, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
Hữu Đạt - Ngôn ngữ thơ Việt Nam, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1996.
Thế Anh - Đoạn trường tân thanh – Truyện Kiều đối chiếu Nôm - Quốc ngữ, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1999.
Trích trong sách VŨ NHO Từ Kim Vân Kiều đến truyện Kiều so sánh và bình luận, Nhà xuất bản Thanh Niên, tái bản lần thứ nhất, năm 2019.
Người gửi / điện thoại