Tuyển dịch thơ
DANH NHO VIỆT NAM
越 南 名 儒 诗 译 选
LỜI GIỚI THIỆU
Với chiều dày bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước bằng những chiến tích vẻ vang, anh hùng, Việt Nam còn là một nước có nền văn hiến lâu đời. Cha ông ta đã để lại một kho tàng văn học đồ sộ, đáng tự hào. Trong đó có tiếp thu nền văn học của thế giới với sự sáng tạo, mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Đó là thơ Đường luật - Một di sản văn học của Trung Quốc - Thể thơ cổ mang tính Hàn lâm có niêm luật chặt chẽ, rõ ràng. Mà người Trung Quốc hiện đại muốn đọc hiểu, phải dịch ra Bạch thoại (ngôn ngữ Hán hiện đại) mới thấy được ý nghĩa của bài thơ. Trong khi đó người Việt xưa đã tiếp thu, sáng tác thơ Đường bằng chữ Nho. Và ngày nay, người Việt Nam sáng tác, giao lưu, xướng - họa thơ Đường thông thạo đều do thừa hưởng kế thừa di sản văn học cha ông ta để lại.
Các nhà Nho Việt Nam xưa đã tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo nghệ thuật thơ Đường của Trung Quốc, sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Nho. Các bậc danh Nho, đặc biệt các danh nhân Văn hóa thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và ngày nay là Hồ Chí Minh và những nhà Nho danh tiếng khác như Thiền sư Vạn Hạnh (Thế kỷ thứ 10). Một trong những trí thức Phật giáo làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành , đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn , là người có tài tiên đoán, đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra triều Lý - Triều đại lâu dài đầu tiên trong lịch sử Việt Nam . Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông - Người sáng lập phái Trúc Lâm Yên Tử; Phạm Sư Mạnh, làm quan thời nhà Trần, học trò xuất sắc của Chu Văn An; Nguyễn Phi Khanh, phụ thân của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Đặng Dung, danh tướng thời Hậu Trần, khi bị bắt giải về Trung Hoa, ông đã tuẫn tiết “Thù trả chưa xong đầu đã bạc/ Gươm mài bóng nguyệt mấy thu nay”; Thái Thuận, nhà thơ quan lại Việt Nam thời Lê sơ; Tiến sĩ Phạm Công Trứ, Tham tán Trấn Sơn Nam - một Tể tướng giỏi thời Lê Trung Hưng. Ngô Thì Ức, ông nội Ngô Thì Nhậm, tài hoa, ưa cuộc sống tiêu dao, nhàn tản, thoát khỏi mọi công danh tục lụy. Nhà bác học Lê Quý Đôn, ban quản tu Quốc Tử Giám, thị giảng viện Hàn lâm, làm trong phủ chúa.... Ngô Thì Nhậm, cháu Ngô Thì Ức, danh tướng thời hậu Lê. Nguyễn Hạnh, cháu gọi Nguyễn Du là chú, ở nhóm “An Nam ngũ tuyệt”. Thơ chữ Hán của bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Phan Huy Chú, Hàn Lâm biên tu, con trai nhà Nho nổi tiếng Phan Huy Ích. Nguyễn Văn Siêu, đỗ Phó Bảng, làm Án Sát, bạn thân Cao Bá Quát, hai nhà thơ nổi tiếng, được mệnh danh “Thần Siêu thánh Quát”. Nguyễn Quang Bích với “Ngư Phong thi tập”, sáng tác trong những năm ông lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp. Nguyễn Khuyến với “Yên Đổ thi tập, “Quế Sơn thi tập”... Phan Đình Phùng, lãnh đạo phong trào chống Pháp thế kỷ 19, là nhà thơ sáng tác nhiều câu đối và các tập thơ “Đáp hữu nhân kỳ thi”, “Thắng trận hậu cảm tác”,... Phan Bội Châu, nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp, người thành lập phong trào Duy Tân, khởi xướng phong trào Đông Du với nhiều tác phẩm nổi tiếng “Hịch Bình Tây thu Bắc”, “Hải ngoại huyết thư”, “Việt Nam vong quốc sử” ...
Trong khi chọn dịch tuyển tập các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán của các nhà thơ tên tuổi Việt Nam, tôi vô cùng khâm phục kiến thức uyên bác, thể hiện nội dung phong phú về lịch sử chống ngoại xâm, ca ngợi phong cảnh quê hương tươi đẹp, cuộc sống qua nhiều triều đại của nhân dân ta.
Khi dịch thơ chữ Hán, tôi cố gắng thể hiện trung thực nội dung bài thơ, giữ nguyên niêm luật thơ Đường, diễn tả sao cho người đọc vẫn cảm nhận phong vị thơ nước ngoài nhưng đã được Việt hóa. Với những bài thơ Đường luật, tôi thường dịch theo hai thể loại: dịch nguyên thể thơ Đường và chuyển lục bát. Đồng thời có một số bài tôi dịch sang thể lục bát cho gần gũi với tâm hồn và sự thưởng thức của người Việt Nam.
Với khả năng có hạn, trong khi biên dịch không tránh khỏi khiếm khuyết. Mong bạn đọc gần xa chỉ giáo. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, xuân 2024
Nguyễn Đình Nhữ
萬 行 禪 師
VẠN HẠNH THIỀN SƯ
(938 - 1018)
Vạn Hạnh ( chữ Hán : 萬 行) ( 938 - 1018 ) là một tu sĩ Phật giáo Đại Cồ Việt , người châu Cổ Pháp (Bắc
Ninh). Ông là một trong những trí thức Phật giáo làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành , đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn , đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông được xem là người có tài tiên đoán, đã vận dụng khả năng này để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra triều Lý, triều đại lâu dài đầu tiên trong lịch sử Việt Nam .
示 弟 子
身 如 電 影 有 還 無
萬 木 春 榮 秋 又 枯
任 運 盛 衰 無 怖 畏
盛 衰 如 露 草 頭 鋪
萬 行 禪 師
THỊ ĐỆ TỬ
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Vạn Hạnh thiền sư
Dịch nghĩa:
DẶN HỌC TRÒ
Người đời như chớp bóng, có rồi lại không
Như muôn cây cối, mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo
Mặc cho vận đời, dù thịnh hay suy đừng sợ hãi
Vì thịnh suy cũng mong manh như giọt sương đầu
ngọn cỏ.
Dịch thơ:
DẶN HỌC TRÒ
1/ Đời như chớp bóng, có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu héo cong
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Thịnh suy - ngọn cỏ giọt sương trong.
N.Đ.N.
2/ Đời như chớp bóng sắc, không
Ngàn cây xuân thắm, thu trông héo tàn
Mặc đời suy thịnh đừng than
Thịnh suy sương đọng trên làn cỏ non.
元 飞 倚 栏
NGUYÊN PHI Ỷ LAN
(1044 - 1117)
Ỷ Lan ( chữ Hán : 倚 蘭, 7 tháng 4 , 1044 - 24 tháng 8 , 1117 ) hay còn gọi là Linh Nhân Hoàng thái hậu (靈仁皇太后), là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông , mẹ ruột của Hoàng đế Lý Nhân Tông trong lịch sử Việt Nam. Bà đã hai lần đăng đàn nhiếp chính , khiến đất nước dưới triều Lý được hưng thịnh. Những đóng góp cho hoàng triều nhà Lý nhất là về Phật giáo và tài năng trị nước của bà đều được sử gia khen ngợi và tán dương. Tuy vậy, để có thể có quyền hành nhiếp chính đất nước, bà đã mưu kế dựa vào Lý Thường Kiệt , phế truất và sát hại Thái hậu nhiếp chính tiền nhiệm là Thượng Dương Hoàng thái hậu . Việc làm này đã gây nên nhiều tranh cãi xung quanh bà.
色 空
色 是 空 空 即 色
空 是 色 色 即 空
色 空 俱 不 管
方 得 契 真 宗
黎 氏 倚 栏
SẮC KHÔNG
Sắc thị không, không tức sắc
Không thị sắc, sắc tức không
Sắc không câu bất quản
Phương đắc khế chân tông.
Lê Thị Ỷ Lan
Dịch nghĩa:
CÓ và KHÔNG
Có là không, không tức là có
Không là có, có tức là không
Có, không đều chẳng quản
Mới hợp với tông phái chân chính
Dịch thơ:
CÓ VÀ KHÔNG
1.
Có là không, không tức có
Không là có, có tức không
Có không đều chẳng quản
Mới hợp với chân tông.
N.Đ.N.
2.
HỮU HÌNH VÀ HƯ KHÔNG
Hữu hình là cái hư không
Hư không là cái có trong hữu hình
Hư không là cái hữu hình
Hữu hình là cái bóng hình hư không
Dù là hiện hữu hư không
Đều nên hợp với chân tông mới là.
N.Đ. N.
Người gửi / điện thoại