KỶ VẬT CỦA MÁ
Truyện ngắn của Nguyễn Đình Gấm
*Có lẽ tôi nằm trong số những hành khách cuối cùng lên chuyến tàu thống
Nhất tối nay. Tôi công tác ở thành phố Hồ Chí Minh, mỗi năm được đi phép về
quê một lần. Hôm nay trả phép tôi cứ nấn ná mãi vì mấy đứa bạn thành ra đến
phút chót tôi mới lên tàu được. Khi vừa bước lên tàu thì nghe có tiếng phụ nữ rất
ấm áp: “Anh bộ đội ơi, làm ơn xách giùm tôi cái túi”. Tôi cầm cái túi và ngỡ
ngàng nhận ra đó chính là thiếu phụ mà tôi đã gặp ở lăng Bác sáng nay. Tôi
miễn cưỡng cùng chị đi tìm chỗ ngồi, một điều tình cờ là tôi và chị lại ngồi gần
nhau. Khi đã yên vị trong chỗ ngồi của mình, chị nhìn tôi nói:“ Cám ơn anh
nhé”. Rồi chị nở một nụ cười rất tươi, tự nhiên nói với tôi:
“Quà của ba má gửi đó anh ạ, toàn lạc và đỗ, sản phẩm nông nghiệp cả,
em xách nặng lắm nhưng ba má tôi nói cố mà mang nhé vì đó là tấm lòng của
gia đình, quê hương”.
Thiếu phụ còn nói với tôi nhiều điều khác nữa nhưng tôi đâu có hiểu lời
chị nói, bởi ký ức về buổi sáng gặp chị ở lăng Bác đang sống lại trong tôi. Đúng
là chị ấy rồi, sáng nay trong dòng người xếp hàng vào lăng Bác, một thiếu phụ
đi trước đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Thiếu phụ khoảng 30 tuổi, dáng người
dong dỏng cao, áo màu thanh thiên dản dị với khuôn mặt đôn hậu phảng phất
buồn. Một khuôn mặt đẹp nhưng hơi buồn thường khêu gợi trí tưởng tượng của
con người. Có lẽ cũng vì thế mà thiếu phụ có sức thu hút đối với tôi. Ở trong
lăng Bác, tôi thấy thiếu phụ đắm đắm nhìn Bác rồi òa lên khóc nức nở. Vừa
khóc, chị vừa cất tiếng gọi “má ơi”. Tiếng thổn thức của chị đã làm xúc động
bầu không khí trong lăng, thu hút ánh nhìn của mọi người. Một vài người nữa
cũng khóc và ngay cả tôi cũng không cầm lòng được, nước mắt cứ trào ra.
Viếng Bác, gặp Bác và chúng ta khóc vì niềm vui sướng và sự thiêng liêng dâng
lên ở trong lòng âu đó cũng là lẽ thường tình đối với những ai đã một lần vào
lăng viếng Bác. Điều làm tôi ấn tượng với thiếu phụ lại ở chỗ khác. Đó là, khi đi
thăm nhà sàn của Bác tôi để ý thấy thi thoảng thiếu phụ lại lấy ra một chiếc
gương tròn lớn, đưa lên soi. Tôi cảm thấy khó chịu vì không hiểu tại sao chị ta
lại soi gương, trang điểm khi đi thăm các kỷ niệm về Bác Hồ?
Thật chớ trêu làm sao, bây giờ chính người thiếu phụ ấy đang ngồi bên
cạnh tôi trên tàu. Cái cảm giác khó chịu ban sáng lại gợi lên trong tôi. Vậy nên
tôi đâm ra lúng túng khó xử. Tôi tự nhủ: “Không biết cụ thể thế nào, nên hãy
quên nó đi và chớ có để lộ cho chị ta biết rằng mình có thái độ không hài lòng.
Với lại nhìn chị ta đang tự nhiên, chân thành vui vẻ thế kia. Khi con người chân
thành thì chắc chắn họ là con người tốt, đáng tin cậy”. Tôi thầm nghĩ có lẽ thiếu
phụ là người Sài Gòn. Tôi đã sống ở Sài Gòn được bẩy năm rồi nên nhận ra
ngay giọng nói dễ thương và cách ứng xử tự nhiên của các cô gái, các bà các
mẹ. Thấy đã vui hơn trong lòng, tôi quyết định làm quen với thiếu phụ. Đối với
tôi, ngồi tàu mấy ngày trời đằng đẵng mà thui thủi một mình thì không chịu
được. Chuyến đi nào tôi cũng làm quen để người ngồi bên cạnh mình trở thành
bạn đồng hành. Kể cũng thú vị. Lần thì tôi kết bạn với hai bố con bác nông dân
vào thăm con ở Vũng Tàu; có lần một anh kỹ sư nông nghiệp vui tính, hài hước
công tác tận Cần Thơ, lần thì một cô sinh viên vui vẻ, hay cười…Lần này bạn
đồng hành là một thiếu phụ đẹp nhưng có gì đó bí ẩn. Để mở đầu câu chuyện,
tôi liền hỏi:
“Có lẽ chị ra Bắc thăm người nhà”?
Chị nhìn tôi vui vẻ trả lời:
“Dạ, quê chồng tôi ở Hà Bắc, cứ mỗi năm một lần tôi ra thăm ba má và viếng
Bác”.
Tôi nói với chị rằng quê tôi cũng ở Hà Bắc và định hỏi quê chồng ở huyện
xã nào, biết đâu tôi cũng có thể biết. Nhưng thoáng nhìn thấy chiếc gương tròn
lớn mà thiếu phụ đã lấy ra soi buổi sáng, tôi ngạc nhiên quá. Đó không phải là
gương soi mà thực ra là khung kính tròn to, có chân dung Bác Hồ. Tôi lặng
người đi không nói câu nào nữa. Buổi sáng, một cảm giác khó chịu đã nẩy ra
trong tôi, rằng thiếu phụ có vẻ không đứng đắn, chị ta lại soi gương khi đi thăm
các kỷ niệm về Bác Hồ. Đúng là cái gì mình nhìn thấy chưa chắc đã thấy rõ. Bây
giờ tôi mới vỡ lẽ ra rằng không phải thiếu phụ soi gương mà thỉnh thoảng lại giở
ảnh Bác ra xem và gọi thầm “má ơi”. Tôi cảm thấy mình có lỗi, nói với thiếu
phụ:
“Tôi thành thật xin lỗi chị, lúc ban sáng khi vào lăng viếng Bác tôi đã nghĩ
không đúng về chị, tôi cứ ngỡ là chị soi gương…”.
Thiếu phụ nhìn tôi: “Anh nghĩ như vậy sao”.
Kể từ đó chị có thái độ khác, rất buồn và im lặng. Tôi cũng chẳng biết nên
xử xự thế nào nữa cũng buồn và suy nghĩ linh tinh. May mà thời gian là phương
thuốc thần hiệu quả nhất. Cả khoang tàu lúc đầu ồn ã, chuyện trò, cười nói vui
vẻ rồi bỗng nhiên lại im lặng. Có vẻ như ai cũng muốn yên tĩnh và thiu thiu ngủ.
Rồi một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua. Từ trong tâm thức dường như thiếu
phụ đã không còn buồn và tôi cũng đã vui vẻ tự nhiên trong giao tiếp với thiếu
phụ. Khi đến ga Đà Nẵng tàu thay đầu máy, thời gian nghỉ dài hơn. Thiếu phụ
nhờ tôi trông hộ túi hành lý, lúc này chị mang theo túi nhỏ theo mình. Khi ấy ai
cũng tranh thủ xuống tắm rửa, thay quần áo. Và khi quay lại tàu ai nấy đều tươi
tỉnh hẳn ra. Sau khi ăn xong, lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện vui vẻ với nhau.
Chị hỏi kỹ hơn về nơi tôi công tác ở trong thành phố, về công việc của tôi làm.
Tôi cũng hỏi thêm chi tiết về chị và gia đình, biết chị đã có hai con một trai, một
gái các cháu đều còn nhỏ cả. Lần này chồng chị bận tập huấn quân sự nên không
nghỉ phép cùng chị ra bắc được. Tôi đã thầm nghĩ, vậy là thiếu phụ đã quên đi
cái lỗi của tôi. Và rồi, chính thiếu phụ chủ động kể cho tôi câu chuyện về nguồn
cơn của chiếc gương có ảnh bác Hồ.
**Đó là vào mùa thu năm 1969, khi tôi học lớp 12, chuẩn bị thi tú tài.
Một buổi chiều tôi không đi học thêm với bạn bè mà có việc về nhà đột xuất.
Bất ngờ tôi chứng kiến má tôi, bác Tư An, cô Bích Hồng đều đang ở nhà tôi.
Mọi người đang khóc, má tôi cũng đầm đìa nước mắt, đang cầm bức ảnh một
ông già râu tóc bạc phơ, hiền từ. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ảnh của Bác
Hồ. Khi thấy tôi vào má úp ảnh xuống phía dưới, ai cũng có vẻ lo lắng sợ hãi, vì
đã khóa cửa nhưng tôi có chìa riêng mới vào nhà được. Thì ra hôm đó, má bác
Tư An và cô Bích Hồng là những đảng viên trong chi bộ họp bàn về việc làm lễ
truy điệu Bác Hồ. Tôi thấy má quyết định rất nhanh và dứt khoát: “Thưa các
đồng chí, út Liên đã biết rồi, tôi quyết định nói rõ mọi chuyện cho cháu, tôi tin
vào phẩm chất của cháu và xin đảm bảo với tổ chức sẽ tuyệt đối giữ bí mật”.
Bác Tư An nói: “Bác Hồ đã mất hồi 9h 47 phút ngày hôm qua rồi. Bác là Chủ
tịch Đảng, Chủ tịch nước, người lãnh đạo tối cao cách mạng của Việt Nam.
Hôm nay cấp ủy họp bàn để ngày mai sẽ làm lễ truy điệu bí mật. Giờ út Liên
biết rồi phải tuyệt đối giữ bí mật, coi như con chưa nghe thấy và nhìn thấy gì.
Bác tin vào con, vì má cũng đã giáo dục và rèn luyện dần để đưa con vào đội
ngũ những người cộng sản”. Sau đó tôi được mời ra phòng ngoài để cuộc họp
tiếp tục.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi suy nghĩ nghiêm túc về bản thân, về má
và những người xung quanh. Thì ra má Tâm, bác Tư An và cô Bích Hồng là
cộng sản. Tôi tự trách mình má không cho tôi biết má là cộng sản, cả chuyện
Bác Hồ mất và bao chuyện khác là vì tôi còn con nít, tính tình thất thường hay
nói năng bộp chộp của tôi chăng. Cũng từ hôm đó, tôi có vẻ trưởng thành hơn,
ngoài thời gian học tập, tôi còn phụ giúp đỡ má việc kéo sợi, mua thực phẩm,
nấu ăn. Tôi cũng nói thêm với anh là năm lớp 12, chuẩn bị thi tú tài tôi được khá
nhiều bạn học theo đuổi, săn đón, tán tỉnh. Thi thoảng một bông hồng, một bức
thư của anh chàng si tình bỏ quên trong vở học của tôi. Biết mình hấp dẫn, tôi
càng làm cao, càng kiêu sa. Đó là sai lầm ngây thơ của phụ nữ chúng tôi. Má
Tâm đã nhận ra điều đó ở tôi và thường uốn nắn tôi. Má thi thoảng nhắc: “Hồng
Liên, con nói ít đi, để phần người khác với nữa nghe. Út Liên, con nói nhỏ giọng
và chậm hơn má thấy dễ nghe hơn. Con mặc áo dài trắng đẹp lắm, đừng đua đòi
mặc minijip ngắn cũn cỡn, má không thích, không ưng đâu…”. Mỗi lần má nhắc
nhở, tôi đều cự lại nhưng rồi cuối cùng phần đúng cũng thuộc về má. Tôi tin má
và thường kể cho má nghe về mọi điều mắt thấy tai nghe ở trường học, ngoài
đường phố. Một hôm tôi kể cho Má nghe chuyện một thằng cố vấn Mỹ gây sự
và định bắt cóc một cô gái lên xe bị mọi người phản đối. Nghe xong má hỏi:
“Tụi bay có ưng mấy ông cố vấn Mỹ không?”
Tôi lắc đầu nguây nguẩy. Vì học trò chúng tôi đã thấy lính Mỹ đánh bà
già, lính Mỹ cướp xe Hon Da của một cô gái và vừa rồi cố vấn Mỹ bắt cóc một
cô gái lên xe. Nghe tôi nói xong má ôn tồn nói:
“Chúng nó ở tận bên kia đại dương mà sang nước mình, súng ống nghênh
ngang, gây bao tội ác, làm điều xấu xa, ai mà không căm ghét”.
Tôi với má thường trò chuyện như vậy. Khi thì một tên sĩ quan Mỹ bị nổ
mìn chết ở cổng chợ, khi thì bọn sĩ quan mũ nồi đỏ say rượu hoặc chuyện apphe,
buôn lậu của một ông tướng nào đấy mà má nghe được. Thì ra, má đang âm
thầm giáo dục tôi hướng theo cách mạng. Có một lần, tôi về nhà với niềm hân
hoan phấn khởi. Tôi giở tờ báo mới ra khoe rối rít với má. Hứng lên tôi đọc
ngay cái tin sốt dẻo trong tờ báo mới cho má nghe. Tôi còn nhớ như in những
dòng trên trang báo ngày ấy. “Việt cộng như có phép tàng hình. Bỗng nhiên một
cô gái mặc minijip đỏ đẹp quyến rũ mê hồn xuất hiện ngay trước cổng khách
sạn. Rồi cô gái mặc minijip đỏ lái Honda bay trên đường phố, một đội quân
cảnh mười xe zep đuổi theo, vào đường chiếc Honda dừng lại và kỹ lạ thay, cô
gái đẹp biến thành bà già tóc bạc phơ, bà già lái xe vào chợ rồi biến mất. Khách
sạn bỗng nổ tung. Phải chăng việt cộng có phép tàng hình, độn thổ?”
Tôi đọc to và khoái chá cười, còn má nhìn chăm chú nhìn tôi, cái nhìn âu
yếm trìu mến và tôi thấy rõ ánh mắt của má ngời sáng lên. Má hỏi tôi:
“Con thích lắm sao”
“Việt cộng tài thiệt, đánh Mỹ giỏi như làm xiếc ấy”
Tôi trả lời má và niềm vui vẫn đang dâng lên ở trong lòng. Còn má lại gần
tôi, đặt tay lên vai nhẹ nhàng nói tiếp:
“Út Liên nè, con đang khen má và cô Bích Hồng đó”
Tôi bỗng trầm hẳn xuống, hỏi lại:
“Con không hiểu, vậy là má và cô Bích Hồng cũng là biệt động thành?”.
Má gật đầu, ôm tôi vào lòng. Từ khi biết má là việt cộng, là biệt động
thành tôi giữ đúng lời hứa, luôn cẩn trọng và cảnh giác không sơ hở bí mật. Tôi
còn nhớ như in những lời má nói:
“ Con còn năm cuối, thi lấy bằng tú tài, để rồi má tính, bây giờ con cứ tập
trung vào học cho giỏi là được”.
***Chuyến tàu vẫn lắc lư đều đặn trong đêm. Qua ô cửa nhỏ, những ánh
đèn thị trấn xa xa trôi vụt qua như những ngôi sao lấp lánh.
Người thiếu phụ bỗng lấy ra từ túi xách một vật nhỏ, gói trong tấm khăn
lụa đã sờn. Chị nhẹ nhàng mở ra, đó là bức ảnh Bác Hồ đặt trong chiếc khung
gương tròn cũ kỹ. Khung ảnh đã ngả màu thời gian, nhưng ánh mắt Bác vẫn
sáng ngời, hiền hậu như đang mỉm cười.
Chị đặt chiếc khung ảnh vào tay tôi, giọng nghèn nghẹn:
“Má tôi tặng lại cho tôi cái này trước khi má mất. Má dặn rằng: ‘Đây là kỷ vật
thiêng liêng của má, của gia đình mình, của cả dân tộc mình. Con phải giữ lấy,
như giữ chính trái tim của con vậy’. Tôi mang nó ra viếng Bác lần này cũng là
để má được gặp lại Bác, để lời thề năm xưa của má được trọn vẹn trong lòng
tôi.”
Tôi cầm khung ảnh, cảm giác nó như ấm lên trong tay. Một niềm xúc
động dâng trào, khiến tôi không thốt nên lời. Trong bóng tối lặng yên của toa
tàu, tôi lặng lẽ cúi đầu, lòng tràn ngập biết ơn người mẹ Sài Gòn đã âm thầm
chiến đấu, hy sinh cả đời cho Tổ quốc.
Trước khi tàu chuẩn bị vào ga, chị Út Liên cẩn thận cất chiếc khung kính
vào túi. Chị quay sang tôi, mỉm cười, nụ cười đã không còn vương nỗi buồn mà
chan chứa ánh sáng ấm áp:
“Anh… có dịp vào Thành Phố Hồ Chí Minh ghé thăm gia đình tôi nhé. Nhà tôi
ngay gần chợ Bến Thành, hỏi Út Liên ai cũng biết.”
Tôi bối rối gật đầu, chưa kịp nói thì tiếng loa sân ga đã vang lên báo hiệu
tàu đến bến. Dòng người lại xôn xao, hối hả thu dọn hành lý.
Khi tàu dừng hẳn, giữa biển người đông đúc, tôi còn nhìn theo bóng chị
khuất dần trong đám đông, chiếc khăn lụa buộc trên vai phấp phới. Tôi đứng
lặng, lòng trào lên một cảm xúc khó gọi thành tên.
Bắc Giang
Người gửi / điện thoại