
Tín hiệu thường ngày – Tín hiệu của một hồn thơ đích thực.
( Nhân đọc tập thơ Tín hiệu thường ngày của tác giả Bùi Trọng Thể, NXB Hội Nhà văn năm 2019)
Nhà thơ Nguyễn Thị Mai
Thế là nhà giáo Bùi Trọng Thể - tác giả tập thơ Người lĩnh xướng bè trầm lại có thêm tập thơ thứ hai. Tập thơ mang cái tên thật dung dị, tưởng không có gì: Tín hiệu thường ngày nhưng nội dung và nghệ thuật thì thật đáng nể.
Điều đáng nể ấy là: một hồn thơ đau đáu nỗi thương đời nhưng cũng tin yêu cuộc đời với một tình cảm thiết tha trong vắt và tuy “làm thơ tay trái” nhưng sản phẩm của anh đích thực là sáng tạo nghệ thuật.
Với 52 bài thơ trong Tín hiệu thường ngày, tập thơ vừa đủ để ta đọc một hơi không ngừng nghỉ, và cũng vừa đủ để ta nhận ra chân dung một cây bút. Nếu ai đã đọc, ắt không thể không nhớ, ắt xuất hiện nhiều cảm xúc rưng rưng có thật trong lòng mình.
Ấy là cái nhìn về sự đổi mới của quê hương đất nước. Với giọng thơ sảng khoái, nhịp thơ dồn dập, khỏe khoắn, từ ngữ gợi hình giàu biểu tượng, qua các bài thơ: Hải Phòng, Đảo sóng, Đêm ấy hừng đông, Ngọn lửa soi đường, Nhìn ra biển lớn, Cầu vồng trên biển, Bình minh biển… ta bắt gặp một Hải Phòng đi lên từ gian nan nghèo khó với truyền thống lịch sử hào hùng trong niềm tự hào kiêu hãnh của tác giả. Riêng bài Nhìn ra biển lớn, giọng thơ đầy khí thế, lây sang ta niềm tin yêu, tự hào trước sự đổi mới nhanh chóng, vươn mình lên tầm vĩ mô của một thành phố Cảng:
Thành phố trẻ trung
Cánh tay thép vươn trên phù sa đỏ
Người đất Cảng ăn sóng nói gió
Sống chết với con đường huyết mạch phía đông.
Đây là tình cảm tự nhiên của người thật lòng yêu mảnh đất nơi mình sống (Bây giờ nhiều tập thơ không có bóng dáng quê hương của tác giả đâu). Nhưng có được ngày hôm nay, đất nước và con người Hải Phòng phải đánh đổi bằng sự đau thương mất mát lớn lao trong đó có gia đình tác giả:
Anh chưa về
Nhà mình đầy trống vắng
Em đi mòn năm tháng
Ngày đêm thương nhớ khôn nguôi… ( Tìm anh ở phía mây trời)
Và bao gia đình khác, đau thương mất mát hiện về dưới ngòi bút thơ Bùi Trọng Thể
Tiễn con đi, hương khói đón con về
Từng khúc ruột lần lượt vùi đất lạnh
Tay mòn vẹt rờ rẫm mười di ảnh
Một mình xoay mười đôi đũa mòn mâm.(Con của mẹ Việt Nam).
Nhưng anh là một người lính từng đi qua cuộc chiến tranh. Anh hiểu giá trị của sự hy sinh thật lớn lao, thật đắt, quá đắt: Nằm đây có cả nhân tài/ Hai mươi tuổi, những cuộc đời… rưng rưng/ Giữa vòng tay mẹ yêu thương/ Nghìn nghìn vạn vạn nén hương cháy lòng (Có một binh đoàn), và cả bài Liệt sĩ chưa có tên là nỗi xót xa đau đớn, ám ảnh người đọc. Nhưng thơ Bùi Trọng Thể không buồn thương sướt mướt, càng không hề có giọng nuối tiếc hay ân hận. Dòng cảm xúc yêu nước còn thể hiện nhiều trong các bài như: Triệu trái tim thao thức với biển Đông, Chim cú biển, Nghĩ về Gạc Ma…Lời thơ như sự rủa nguyền, uất nghẹn với một thái độ rõ ràng “Sóng nước xoáy những vòng tròn giận dữ/ Bọn tà tâm láng giềng nã pháo giết các anh” (Nghĩ về Gạc Ma). Thơ anh cho ta hiểu sâu sắc giá trị thiêng liêng của sự hy sinh để bảo vệ đất nước, cũng cho ta hiểu rõ hơn cái giá phải trả cho đất nước phồn thịnh hôm nay. Mặt trái của nó cũng được phơi bày tất yếu với một nỗi cảm thông chua xót: “Trả quê cho ruộng vườn quê/ Bươn ra thành phố làm thuê vật vờ… Bon chen cố bán cơ hàn/ Để trang trải nỗi gian nan phận nghèo” ( Chợ chẳng bán gì). Trong khi người lao động nghèo phải bán sức thảm thương thế ấy thì tầng lớp trên, quan tham vẫn ngang nhiên bòn rút của dân của nước để làm giàu. Bài thơ “Vẫn trời xanh biển biếc” trong tập thơ là một minh chứng cho thái độ khinh bỉ, phê phán của cây bút với những gì xấu xa tội lỗi. Vì thế, thơ Bùi Trọng Thể nặng về tâm tư trách nhiệm với đời, với con người. Những gì thuộc tình cảm riêng tư bản thân (cái tôi) anh thể hiện rất ít. Nhưng dù vậy, người đọc vẫn hiểu nhân cách của người làm thơ. Ấy là một nhân cách tử tế. Biết dạy con: Không quay quắt, chẳng sống hèn/ Dìu nhau chống đỡ bao phen khốn cùng… Tài chưa đủ để tự hào/ Thì nuôi ý chí khát khao vượt người ( Nói với con). Ấy là biết cái lẽ ở đời: Thời đại văn minh ga rác mọc nơi nơi/ Càng biệt thự nguy nga càng bao la đồ vứt bỏ (Tín hiệu thường ngày). Câu thơ nói về rác mà ẩn ý sâu xa, gợi ra bao điều suy ngẫm. Suy ngẫm cái lẽ ấy mà sống cho ra con người: Mỏ ngắn dài, thân khoe nhiều màu sắc/ Là chim cả thôi, sáo sậu chào mào…/ Hơn thua sang hèn định hình điệu hót/ Thấp cổ giọng trầm, ngồi chót vót giọng cao (Chỗ đứng). Cuối cùng, nhân cách con người trong thơ Bùi Trọng Thể là biết kính trọng, biết ơn nghĩa những gì đời cho mình, người cho mình, biết mình phải làm gì cho cuộc đời này. Điều đó có ở các bài: Trước từ đường nhà Mạc, Dấu xưa, Vị tướng của lòng dân, Đêm ấy hừng đông, Viếng thày… Nhiều câu thơ nhỏ nhẻ như lời tâm sự thôi nhưng đánh động lòng trắc ẩn trong ta, ngẫm lâu mới hiểu hết.
Sáng tạo nghệ thuật là nỗi khát khao của muôn đời và muôn người. Bùi Trọng Thể làm thơ không ngoài nỗi khát khao đó. Nhưng anh là người tỉnh táo, khiêm nhường, bởi anh biết đó là công việc khó khăn, nhọc nhằn, nhiều khi lạc cả hồn vía, tự đày ải thân xác:
Lục tung đống chữ đã mòn
Từ nào chưa chín thì còn loay hoay
Ngẩn ngơ lúc tỉnh lúc say
Nghiện thơ như thể trời đày thế ư? ( Thi sĩ).
Và anh đã từng nghĩ về thơ với phận mình vẫn là khoảng cách:
Đa đoan là kẻ đa tình
Chìm trong giông gió vẫn mình chiêm bao (Trong tập thơ Người lĩnh xướng bè trầm).
Thế mà rất may Bùi Trọng Thể đã thành công bước đầu với hai tập thơ, để lại nhiều lời khen của bạn đọc.
Bởi vì ngoài nội dung thành công trên, thơ anh còn thành công ở nghệ thuật sáng tác. Trước hết là ngôn ngữ. Anh không bứt phá, tìm tòi cách thể hiện kỳ lạ để tập trung sự chú ý của người đọc như nhiều người. Cũng không dùng lời cũ kỹ với những hoài niệm xưa xa về những điều đã qua. Ngôn từ trong Tín hiệu thường ngày rất tự nhiên theo dòng cảm xúc, không cũ mà vẫn mới. Chất tự nhiên đó tạo nên cái giản dị, cái chân thành, cái gần gũi, cái dễ cảm nhận với người đọc. Bên cạnh đó, thơ Bùi Trọng Thể cũng gây ấn tượng bởi giọng điệu. Giọng điệu nổi nhất trong thơ anh là sự hồ hởi, nhiệt tình, lạc quan và trong sáng. Có câu thơ hồ hởi reo vui như thơ của thế hệ đứng trên “đỉnh cao muôn trượng” năm 1961. Nhiều câu thơ lạc quan hồn hậu khi nhìn sự vật hiện tượng đẹp và thi vị. Nó thể hiện ở thời gian nghệ thuật tác giả dùng trong thơ. Có tới 13 hay 14 lần anh dùng các từ bình minh, hừng đông, rạng đông, buổi sáng, sáng sớm… nhưng cả tập thơ không có từ hoàng hôn hoặc rất hiếm nói về thời gian buổi chiều, buổi đêm. Hoặc có những bài viết về đau thương, chia ly nhưng không xuất hiện những từ cảm thán hoặc từ chỉ tâm trạng buồn rầu đau khổ mà vẫn xúc động vô cùng. Phải chăng đó là tâm trạng của người nhìn cuộc đời rất trong trẻo và sống đầy niềm tin yêu hy vọng. vì thế một số bài thơ anh phản ánh được hiện trạng xã hội hôm nay còn nhiều nỗi cơ cực, trái ngang, bất công nhưng không làm người đọc nặng nề, u uất. Trong ngôn ngữ miêu tả, thơ Bùi Trọng thể còn tả rất sống động và gợi. Một thành công đáng kể nữa là hầu hết các bài thơ trong Tín hiệu thường ngày đều rất có vần, có nhịp. Vần và nhịp đã góp phần tạo nên cảm xúc, tạo nên điệu hồn, tạo nên hơi thở cuộc sống và tạo nên giọng điệu của riêng thơ Bùi Trọng Thể.
Nếu cần kể tên những bài thơ hay, gây ấn tượng trong tập, ta không thể không kể các bài: Chợ chẳng bán gì, Dấu xưa, Tìm anh ở phía mây trời, Tiếng khóc Thúy Kiều, Chỗ đứng, Khát vọng, Nói với con, Có một binh đoàn… Chắc chắn bạn đọc sẽ rất thích nếu được đọc các bài thơ này.
Tuy còn một hai bài viết chưa tới, có bài còn lúng túng chưa tập trung ý tưởng, có câu thơ còn hồn nhiên chưa dụng công, nhưng một tập thơ viết được như những điều phân tích trên là thành công. Hơn nữa tác giả Bùi Trọng Thể là một nhà giáo có tâm hồn thơ chứ chưa phải nhà thơ mà sức viết như thế, cảm xúc như thế, sử dụng nghệ thuật thơ như thế, chắc chắn bạn đọc sẽ nể phục. Chúc mừng tập thơ Tín hiệu thường ngày đã có được thành công này.
Thanh Xuân, ngày 22/1/ 2019

Người gửi / điện thoại