Khảo cứu "Tục Ngữ"
trên Tạp Chí Nam Phong cách 100 năm
TS. Nguyễn Văn Hoa ( Tháp Dương –Bắc Ninh )
Cách đây 100 năm, khoảng đầu thế kỉ 20 , trên TC Nam Phong ( xin phép viết tắt là NP) đã có bài " Tục ngữ phú " của Phạm Như Môn ( Xin phép viết tắt PNM). .Tác giả PNM viết dưới thể loại "Phú" nhưng chất liệu của bài này "lắp ghép "lại hoàn toàn là " Tục ngữ".
Nếu đếm chi li có lẽ có đến gần nghìn câu "tục ngữ" Việt .
Ca dao dân gian sang tác từ " trái tim' , còn " Tục ngữ ' thì sáng tác từ"lí trí " qua lao động sản xuất , chiến thắng thiên tai địch họa .
Thế hệ trước đúc kết truyền khẩu cho thế hệ sau . Qua con dâu , con rể hoặc các cuộc di dân tập thể , những kho tàng " văn hóa dân gian " vô giá ấy được mang theo những "chân trời góc bể".
Sau đó qua hội thoại hàng ngày , " Tục ngữ" được truyền dậy qua nhiều thế hệ! Đôi khi dù kẻ thù xâm lược có hủy diệt thậm chỉ cả " kinh đô" , nhưng những viên ngọc quý giá này vẫn được nâng niu giữ gìn trong sâu thẳm lí trí của các tấm lòng Việt.
Nhân nghiên cứu TC NP chúng tôi thấy Tác giả PNM trong tác phẩm đã chia bài "phú" của mình thành 100 đoạn.
Mối đoạn tác giả PNM đều có đặt tên theo " vần ' ví dụ như Vần khôn,giồn,ra,mặt,sự,thật,mất,lòng,trong,cân,tục,ngừ,chẳng, nào,sai,nhắn,như,ai,ôi,nghe,lời,chuyện,họp,giở,thu,hay,bày,như,phơi,thóc,lọ,là,đàn,đọc,mmấy,động,tình,vui,lao,nhiêu,khách,dơi,phàm,người,có,học,đúc,văn,rèn,liếng,đứng,bút,nghiên,trên,bậc,quan,dưới,miền,tổng,lý,cùng,thầy,nho,sĩ,vơi,chị,nữ,sinh,kính,trình,các,đấng,cả,mọi,tân,bằng,mở,trí,rộng,ghi,nên,vi,sửa,chữa,mà,chớ,chê,cười,hậu,thứ,cho,tôi,cám,ân,vạn,bội.
Bài phú độc đáo bởi đã được tác giả cấu kết các câu tục ngữ thành một tác phẩm giàu bản sắc văn hóa Việt !
Hoàn cảnh lịch sử đã khác , điều kiện kinh tế , chính trị xã hội, thậm chí khí hậu cũng biến đổi cơ bản so với thời tác giả PNM viết bài phú trên ;
Hậu WTO , nay 2011 đọc lại những câu " Tục ngữ " đầu thế kỉ 20 , nhưng theo thiển kiến chúng tôi vẫn thấy nó có giá trị truyền dậy rất hữu ích.
Xin phép được xếp sắp theo các tiêu chí dưới đây một số câu Tục ngữ từ tác phẩm phú của PNM
1- Về đồng tiền :
Đời nay nén bạc đâm toạc tờ giấy
Nhiều tiền là tiên cõi trần
Có tiền mua tiên cũng được
Đồng tiền làm phấn con người
Tiền tài thân ngoại vật , có thì rằng có, không thì rằng không
Tiền ít lại muốn thịt nhiều
Của cờ bạc để sân
Bà là bà vì tiền thóc, bà cóc vì ai
Rẻ tiền mặt, đắt tiền chịu
Tiền là áo ,gạo là cơm
Trăm ơn không bằng hơn của
Đồng tiền không chân chạy được
Của vào nhà quan như than vào lò
Trăm người bán vạn người mua
Hòn đất quăng đi , hòn chì quăng lại
Công nơ nhất trả nhì khất
Cờ bạc về sáng
Đắt như là thuốc, rẻ như rau rong
2- Về tâm linh:
Xem bói ra ma
Thần cây đa, ma cây gạo , cú cáo cây đề,: giống như nhau cả!
Lấy vợ kiêng tuổi đàn bà, làm nhà kiêng tuổi đàn ông
Khấn vái rác rơm ,tiền tài cho mồm ông thày bói
Vị thần nể cây đa
Quỷ tha ma vồ
Sống dầu đèn , chết kèn trống
Khỏe như quỷ
Xem bói ra ma , quét nhà ra rác
Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà chắc có điềm giàu
Người sống vì mồ mả , chẳng sống vì cả bát cơm
Ví dù đất biết nói năng thì răng thày rụng
Cha cũng kính mẹ cũng vái , thờ như thờ vong
Giàu làm phúc , khó làm duyên
Sông có khúc , người có lúc
Ở hậu rồi mai gặp hậu
Trai Bát Tràng ,Thành hoàng Kiêu Kị
No nên Bụt , đói nên ma
Ma cũ bắt nạt ma mới
Tam nam bất phú , ngũ nữ bất bần
Làm oán nên oán , làm ơn nên ơn
Trai cao lưỡng quyên ,gái mắt một mí
3- Về gia đình :
Phụ tử tình thâm
Chim có tổ người có tông
Con non cha già
Lấy chồng xem họ
Rau nào sâu ấy
Cha già quyền con
Chồng như giỏ vợ như hom
Con có cha như nhà có nóc
Cha sinh mẹ dưỡng
Đời cua cua máy , đời cáy cáy đào
Xẩy cha còn chú
Thấy sang quàng làm họ
Cháu bà nội tội bà ngoại
Mẹ hát con khen
Cha chung không ai khóc
Rỏ nhà ai quai nhà ấy
4- Về quan hệ xã hội
Bia miệng không mòn nghìn năm
Khôn đâu đến trẻ , khỏe đâu đến già
Ra đường hào hoa , về nhà rỗng tuếch
Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng
Cậy thế cậy thần
5- Về giầu và nghèo
Đi ngựa về xe
Chó cắn áo rách
Nhà giàu mở đám , thất nghiệp nằm đình
Đít không khố đầu không khăn
Ăn mày chẳng tày giữ bị
Có sẻn mới giầu
Thấp cổ bé họng
Giàu làm phúc khó làm duyên
Nhà có cơm tấm thịt đông
Nhà nghèo thì cơm sung cháo rền
Kẻ sang tràng kỉ bát tiên
Kẻ hèn ổ rơm nằm bếp
Kiết đến lõ tĩ
Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống
Nhà nghèo gặp bệnh trọng
Nhà giầu bán chó nhà khó bán con
Bụng đói đầu gối phải bò
Khăn mảnh bát,dép quai mo,áo nước dưa,quần cũ dỉ
Khó giữa đầu , giầu giữ của
V.v…
Trong bài "Tục ngữ phú " của PNM có nhiều câu theo chúng tôi rất độc đáo , ví dụ như
Người lùn xem hội
Thò lò ngã bốn mặt ( Tít thò lò NVH)
Mười câu nói hay không bằng một câu nói dở
Cậu chết mợ người dưng
Mẹ để đồ thì mát , con để đồ vừa tát vừa đánh
Dẫu rụng răng cũng thể hùm
Hoc dốt đồ tốt lại muốn
Chẳng giỗ thì nếp còn đấy
Một người thì kín chin người thì trống
Thủng thả thủng thỉnh,chán như con đĩ chơi trăng
Ăn cả rắn thằn lằn,còn vẽ con sư tử
Rồng leo cây nghệ ,voi đỗ cành rào
Chữ xấu mèo cào ( chữ xấu như gà bới NVH)
Mình khôn để ai dại
Nói ra giọng rượu chẳng hơi riềng cũng hơi men
Thợ may thì ăn hơi giẻ, thợ vẽ thì ăn hơi hồ, thày đồ thì ăn bớt chữ , làm gì chẳng có ăn
Gió liệu chiều che ( Gió chiều nào che chiếu ấy NVH )
Đã hỏng nồi thì lôi lấy rế
Chẳng ưa dưa có bọ ( Chẳng ưa dưa có dòi NVH)
Sang nước Lào phải ăn mắm ngóe
Vắng mặt gọi thằng Ngô , có mặt kêu Ông Sứ ( Vâng dạ trước mặt ,đấm C.sau lưng câu này tôi nghe được từ Chị Tư Vân Mĩ Tho( Tiền Giang ) thời chiến tranh đánh diệt chủng Pôn Pôt NVH).
Tớ ruồi thầy mật
Làm đĩ có gan ( Có gan làm đĩ có gan chịu đòn NVH)
Mật ít ong nhiều ( Mật ít ruồi nhiều NVH)
Bù nhìn coi dưa , đười ươi giữ ống
Phải gai lại lấy gai nhể
Hươu trỏ là ngựa ,đỉa cũng như rươi
Lếu láo bố cu nhăng ,nhếch nhác con mẹ mốc
Nói chẳng hở hàm răng
Củi đậu lại nấu đậu
Hùm tha lợn chẳng sao ,mèo tha thịt đuổi cùng củ-tỉ
Lệnh vua phải thua lệnh làng ( Phép vua thua lệ làng NVH)
Không hoài thóc ta cho gà người bới
Nửa miếng giữa làng bằng sàng xó bếp
Tốt danh hơn áo lành
Già lừa đẻ non ngựa, máu bò như tiết dê
Chó dại có mùa người dại quanh năm
Một người làm đĩ xấu cả mĩ danh đàn bà
Người chết rồi mới chết tật
Mắt sắc như dao cau ,mồm ướt như cầu rửa
Trai phải hơi gái bè vó trôi bão
v.v…
Tuy đã nghiên cứu kĩ "Tục ngữ phú" cua PNM , nhưng còn nhiều điều vẫn chưa hiểu , ví dụ
Tại sao tác giả lại đặt 100 đoạn mà không phải dưới 100 hoặc trên 100 .
Hoặc Bí ẩn đặt tên các đoạn vẫn chưa rõ , cố lí giải nhưng mới " loáng thoáng
hoặc "mù mờ " , ví dụ Vần 93 thấy có câu " Ở hậu rồi mai gặp hậu ' thấy tác giả PNm đặt cho tên " Vần hậu"; Vần 95 đặt là " Vần cho" thấy có câu "tục ngữ: Không làm ai cho".
Tác giả dùng phương pháp( phỏng vấn trực tiếp những người cao tuổi +/_ 100 tuổi hoặc thông qua các Cộng tác viên ( thày giáo /học sinh…) bằng các phiếu điều tra kiểu Xã hội học sưu tầm nào mà có "ngân hàng dữ liệu" tục ngữ phong phú như vậy?
Hoặc đi sâu vào nội dung nhiều câu Tục ngữ mà tác giả PNM sưu tầm , chúng ta vẫn chưa hiểu từng tận.
Hoặc phần kết " Tục ngữ phú" của PNM khóa lại như sau :"
Ăn cơm mới nói chuyện cũ quản chi sâu rẫy nồi canh hay thì khuyên bàn ta rặn, đúng thì như cá không ăn múi( muối NVH), vẫn biết rằng lời thì ai nghe xiết,nhiều quá hóa nhàm! Thế mà câu nói của người đời xưa hay còn sót ói. Dẫu rằng kể lể lôi thôi như trôi thòi ruột,bất hạ thiên ngôn;nhưng sánh với kẻ lo co lo bò trắng răng sai thắng kỷ bội ; xin các khan quan làm ơn xét tới "!
Có lẽ mỗi thế hệ tùy thuộc vào hoàn cảnh sống cụ thể mà " sang tác " ra Tục ngữ mới. Xin phép nêu vài ví dụ sau đây mà tôi còn nhớ :
Khi còn chiến tranh Chống giặc Mĩ xâm lược, ở phía Nam xuất hiện các câu tục ngữ
chẳng hạn : " Ăn cơm quốc gia (ám chỉ chính quyền SàiGòn) lại thờ ma cộng sản (ám chỉ theo chính quyền Hà Nội); còn ở phía Bắc lại có các câu tục ngữ ví dụ " Nghiêng đồng đổ nước ra sông" hoặc " Thóc không thiếu 1 cân , quân không thiếu 1 người , tất cả vì Miền Nam ruột thịt"
Hoặc câu " Ngày Bắc đêm Nam ' ( ám chỉ tâm sự của anh em miền Nam tập kết ra miền Bắc , tưởng 2 năm tổng tuyển cử thống nhất đất nước , nhưng phải đằng đẵng chờ đợi kiểu Ngày sống ở phía Bắc đêm lại tha thiết nhớ quê hương ở phía Nam . Sau 30 tháng 4 năm 1975 thì " hội chứng "này mới chấm dứt với hàng vạn gia đình vì Nam Bắc chia li !
Bước sang kinh tế thị trường và mở cửa , hậu WTO ngoài chợ đen (chợ trời) xuất hiên câu Tục ngữ : Tiền là tiên là Phật , là sức bất của tuổi trẻ , sức khỏe của ông già , là cái đà danh vong , cái lọng che thân , cán cân công lí?".
Đọc bài "Tục ngữ phú " của PNM cách đây gần 80 năm (bằng tuổi chị dâu cả nhà tôi quê Bắc Ninh) , thấy trí tuệ dân gian là bất tận, chỉ truyền miệng mà vẫn gìn giữ mãi cho con cháu muôn đời triết lí & kinh nghiệm sống để thích nghi thông minh nhất với từng hoàn cảnh cụ thể ./.
Người gửi / điện thoại