CỤ ĐÌNH NGUYÊN NGUYỄN ĐĂNG HUÂN
- HAI LẦN ĐƯỢC VINH QUY BÁI TỔ
NGUYỄN THỊ THIỆN
Xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây trước đây, nay là ngoại thành
Hà Nội. Sinh ra và lớn lên ở đây nên tôi rất tự hào về quê hương mình, một vùng đất
hiếu học có nhiều người tài năng, đức độ. Dưới thời phong kiến, huyện Thạch Thất có
30 vị đỗ đại khoa, riêng làng Hương Ngải có 6 vị là: Liêu Hiến Chương, Liêu Hiến
Quang, Đỗ Thê, Đỗ Hịch, Phí Thạc và Nguyễn Đăng Huân. Tôi cũng như nhiều người
khác rất ngưỡng mộ và quý phục tài năng, tâm đức, đặc biệt là tính thanh liêm tuyệt vời
của cụ Nguyễn Đăng Huân .
Nguyễn Đăng Huân tên tự là Hy Khiêm, sinh năm Ất Sửu (1805), nhà ở nậu
Thượng - nay là thôn 1 - xã Hương Ngải, trong một gia đình nhà nho. Chuyện xưa kể
rằng: Năm mới lên 8 tuổi, Nguyễn Đăng Huân đã ứng đối rất giỏi. Một hôm, có quan họ
Bùi ở Thịnh Liệt đến chơi với cha, thấy chú bé thông minh dĩnh ngộ, vị quan họ Bùi liền
ra cho một vế câu đối: Phiên âm: Nhị nhân cư đồng hương, hà địa bất sinh tài, hà tài
bất tư thế. (Nghĩa là: Hai người ở cùng một làng, đất nào chẳng sinh người tài, người tài
nào mà chẳng giúp đời). Nguyễn Đăng Huân đã ứng khẩu đối lại: Phiên âm: Nhất cử
đăng khoa đệ, tự hương dĩ cập hội, tự hội dĩ chí đình. (Nghĩa là: Một lần thi đỗ, từ thi
hương rồi thi hội, thi hội đến thi đình). Vị quan họ Bùi khen ngợi là "có khẩu khí","có
khí phách", lúc thiếu thời "Ngư trạc vũ môn"... Năm 14 tuổi được vào học trường dòng,
Nguyễn Đăng Huân đã rất chăm chỉ và học giỏi, nổi tiếng không những trong huyện,
phủ mà cả tỉnh. Các kỳ tập văn của ông đều được thầy phê hạng bình và ưu. Có lần ông
đi ăn giỗ nhà ông ngoại, người cậu của ông ra câu đối trêu rằng: Thịt mỡ dưa hành đi
miếng một. Ông liền ứng khẩu đối lại: Lọng vàng quân kiệu kéo hàng đôi. Điều này đã
thể hiện rõ khí phách của ông ngay từ thuở thiếu thời.
Nhờ quyết chí học hành, Nguyễn Đăng Huân đỗ Trung khoa (Cử nhân) năm Mậu
Tý (1828) tại trường thi Bắc Thành. Kỳ thi này, lấy đỗ 20 người, Nguyễn Đăng Huân đỗ
thứ hai. Năm sau, khi 25 tuổi Cụ đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Kỷ
Sửu niên hiệu Minh Mệnh thứ 10 (1829). Bài đối sách của Cụ trong kỳ thi Đình được
chép trong Lịch khoa Hội Đình văn tuyển (Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội,
ký hiệu: A.1759/ 2). Tên tuổi, quê quán của Cụ được khắc trên bia đá nay vẫn còn tại
Văn Thánh (Văn Miếu) ở Kinh đô Huế. Kỳ thi đó không lấy đệ nhất giáp nên Cụ là Đình
nguyên Hoàng giáp. Sau đỗ đạt, Cụ được bổ làm Hàn lâm viện biên tu, sau đó là Tri phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, tước Hương Đình Bá. Phủ Điện Bàn thời ấy gồm ba huyện:
Diên Khánh, Hòa Lạc và Duy Xuyên, đời sống nhân dân rất khó khăn. Cai quản vùng
này, Cụ làm được nhiều việc lợi dân ích nước. Sinh thời, Cụ kết bạn với nhiều bậc trí
thức chính trực: Cao Bá Quát (1808-1854), Tiến sĩ Hà Tôn Quyền (1798-1839), Tiến sĩ
Vũ Tông Phan (1800-1851), Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), Phó bảng Dương
Đăng Dụng (1804-18?), Phó bảng Diệp Xuân Huyên (1808 - 1847)... Trong đó, Phó
bảng Diệp Xuân Huyên tự là Di Xuân hay Cổ hiên Diệp Huyên đã viết bài "Nguyễn
Đình Nguyên bi ký" bằng chữ Hán ghi lại sự tích, công trạng của Đình nguyên tiến sĩ
Nguyễn Đăng Huân. Hiện nay, tấm bia đá này vẫn còn nguyên vẹn, đặt tại địa phận xứ
đồng Gai, xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất, Hà Nội.
Sau 5 năm làm tri phủ, Cụ được điều về Kinh, thăng chức Lang trung bộ Lễ, ban thụy
hàm Phụng Nghị đại phu - một trong những cơ quan chức năng cao cấp thời nhà Nguyễn
– Sắc phong này của Cụ, hiện gia đình vẫn lưu giữ cùng 5 bản sắc phong khác nữa. Cụ
từng theo vua đi tuần các vùng đất phương Nam. Đang làm Lang trung bộ Lễ, Cụ lâm
bệnh nặng và mất năm 34 tuổi. Người có chức phận xem tư trang của Cụ, trong rương
hòm không có gì đáng giá ngoài bộ triều phục. Về việc này, sách “Đại Nam thực
lục”, bộ sử biên niên của triều đình Nguyễn, do các sử thần ghi chép việc hằng ngày
trong cung vua viết: “Đinh Dậu, Minh Mệnh năm thứ 18 (1837), Thự lang trung bộ Lễ
Nguyễn Đăng Huân, trước Tri phủ Điện Bàn, tại chức 4 năm, tự giữ thanh liêm kiệm
ước và bình tĩnh giản dị, thân với dân, nha lại và dân yêu như cha mẹ, gặp khi có tang
cha, đưa biếu đều không nhận. Đến khi bổ làm chức ở kinh đô, hộ giá đi tuần phía nam,
dân nghe tin đến, đón đường thăm hỏi, nhiều người biếu tiền và vàng cũng không nhận,
đến nay chết ở nơi làm quan, trong túi không có gì cả, chỉ có một cái áo rét được thưởng
để làm đồ liệm mà thôi”.
Sớ về sự ra đi của Cụ được dâng lên triều đình, vua Minh Mệnh vô cùng thương tiếc,
cấp cho 100 quan tiền để dùng cho việc tang, chở thuyền đưa thi hài Cụ về quê. Vua chu
cấp thêm cho vợ con của Cụ 100 quan tiền, thưởng thêm 100 quan cho thân mẫu của Cụ.
Nhà Vua còn lệnh các nơi khi đưa thi hài Cụ đi qua hay dừng nghỉ, đều phải đón tiếp
chu đáo. Chính vì việc này nên quan dân khắp vùng nói rằng: Cụ Đình Nguyên Nguyễn
Đăng Huân hai lần được vinh quy bái tổ. Ngoài ra vua còn giao các chức sắc sở tại
thường niên thăm gia quyến của Cụ.
Sau này, sử quán triều Nguyễn soạn bộ “Đại Nam liệt truyện”, niên hiệu Tự Đức thứ 5
(1852), đã viết về Nguyễn Đăng Huân: ông “tính người thanh liêm cẩn thận, bình dị gần
dân, mỗi khi đi thường đi bộ (không dùng cáng), xử đoán hết tình, thường có người kiện
về ruộng, trước hết mở bảo cho hai bên biết, rồi chỉ nói một câu là xử đoán xong, hai
bên nguyên, bị đều phục; việc khác cũng thế. Coi chức vài năm, người trong quận yêu
như bố mẹ. Vì có tang bố xin về, ai đưa đồ tiễn biếu đều khước từ. Sau lĩnh Lang trung
bộ Lễ, theo xa giá đi tuần qua hạt cũ, nhân dân đón đường yết kiến, nhiều người đưa
biếu tiền lụa, đều không nhận. Rồi chết, túi làm quan vẫn rỗng tuếch, duy có một cái áo
mùa đông mới ban cho để khâm liệm. Đại thần (tức Ngự sử đài) đem việc tâu lên, vua
rất tiếc nói rằng: Đáng giận là lúc Đăng Huân sống không có ai đề cử đến, truy thụ cho
hàm Lang trung, sai hậu cấp cho gia đình; lại sai quan có chức trách ở địa phương
thường hỏi thăm người mẹ. Sau dân Điện Bàn truy nhớ phụ thờ vào Văn từ của bản
phủ”. Và sách "Đại Nam nhất thống chí" tập IV do Viện Sử học UBKH Xã hội Việt
Nam chủ biên - do NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 1971 có viết: “Nguyễn Đăng
Huân là người thanh liêm kiệm ước, gần gũi với dân, lại được dân yêu mến theo xa giá
đi tuần, dân hạt cũ đón đường thăm hỏi, nhiều người cho vàng bạc cũng không nhận.
Chết ở quan không có đồng nào dính túi. Ngự sử tâu lên triều, vua Thành tổ rất thương
tiếc, tặng thị lang và hậu cấp cho gia quyến. Đăng Huân còn có mẹ già, lệnh cho quan
sở tại thời thường đến thăm hỏi" (trang 241). Sách báo thời hiện đại cũng có nhiều tài
liệu viết vệ Cụ. Gần đây có bài báo đăng trên trang thông tin điên tử của UBKT TƯ
Đảng CS Việt Nam ngày 2/08/2017 vớI tiêu đề” Cho liêm khiết trở thành thông lệ”, đã
viết về Cụ và đề nghị lấy đó làm tấm gương giáo dục cho các cán bộ ngày nay.
Như vậy cả ba cuốn“ Đại Nam thực lục”, “Đại Nam liệt truyện”, “Đại Nam nhất
thống chí”, và báo chí thời nay sau khi kể công danh hành trạng đã dùng những câu chữ
hay nhất để ghi nhận, ca ngợi Nguyễn Đăng Huân. Người làm quan ở bất cứ thời nào, có
được đức thanh liêm và lòng thương yêu dân như Cụ quả là hiếm có, thật đáng kính
phục.
Cũng nhờ sự quan tâm, giúp đỡ kịp thời của Vua nên hai con Cụ được học hành
và thành đạt. Con trai cả là Nguyễn Đăng Tích được phong sắc “ Lục phẩm Suất đội” và
bổ hàm “Lục phẩm Văn giai”, sau này được làm tri huyện ở Gia Lộc (Hải Dương) rồi
được thăng làm Tri châu Mai Đà (Đà Bắc và Mai Châu ngày nay). Con thứ của Cụ là
Nguyễn Đăng Bảng làm nghề dạy học, có nhiều lớp học trò theo học, nhiều người thành
đạt và hữu dụng. Hiện nay, tại bàn thờ tư gia dòng đích tôn Cụ còn treo đôi câu đối học
trò mừng thầy Nguyễn Đăng Bảng - con trai thứ của Cụ: “Thanh bạch truyền gia sơn
đầu ngưỡng; Văn chương quán thế thạch bi tôn” (nghĩa là: Gia đình truyền thống thanh
liêm, núi cao cũng ngưỡng vọng; Văn chương bao trùm thiên hạ, bia đá ghi danh còn tồn
tại mãi).
Noi theo tấm gương sáng ngời ông cha, hậu duệ đời thứ sáu của Cụ có PGS.TS
Nguyễn Hữu Khải (sinh 1947), nguyên là Phó Hiệu trưởng trường Cao đẳng Khí tượng
Thủy văn Hà Nội, giảng viên cao cấp trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông Nguyễn
Quang Huy (sinh 1960) là Thường vụ Thành ủy, Trường ban Nội chính Thành ủy,
Thành phố Hà Nội. Hậu duệ đời thứ bảy của Cụ có Tiến sĩ Nguyễn Đăng Giáp (sinh
1974) hiện công tác tại Viện nghiên cứu Khoa học Thủy lợi; có Nguyễn Hoàng Vũ (sinh
1988), hiện là nghiên cứu sinh ngành Vật Lý tại Cộng hòa Liên bang Nga.
Ở Việt Nam, người tài năng như Nguyễn Đăng Huân không quá hiếm, nhưng
người có phẩm chất thanh liêm tuyệt vời như Cụ quả là hy hữu. Tài năng và đức độ của
cụ Đình Nguyên Nguyễn Đăng Huân là tấm gương sáng cần được lan tỏa rộng rãi để
người đời sau học tập và noi theo, nhất là trong tình trạng hiện nay, tệ tham nhũng làm
suy thoái nhân cách, hủy hoại biết bao con người.
Chúng tôi xin mạnh dạn đề nghị với các cơ quan chức năng dùng tên Cụ Nguyễn
Đăng Huân đặt cho trường học trung học cơ sở quê hương của Cụ để lớp hâu sinh thêm
tự hào về danh nhân quê mình. Cũng xin đề nghị với cơ quan chức năng lấy danh tính
Cụ đặt tên một đường phố Hà Nội để ghi nhận, tôn vinh và noi gương một bậc hiền tài
đã tận trung tận hiến vì dân, vì nước.
Hà Nội hè 2023
NGUYỄN THỊ THIỆN sảnh A tòa R6 - Royal Cyti 72 Nguyễn Trãi, Thượng Đình, Thanh Xuân, Hà Nội.
Người gửi / điện thoại