Câu đố1: PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG
VƯƠNG TRỌNG
Nàng Kiều lưu lạc xa gần
Mấy lần kiệu rước, mấy lần ngựa, xe?
Bằng thuyền mấy lượt đi về
Dùng thơ diễn giải mọi bề trước sau
Với ai và những nơi đâu?
Vậy xin nói kỹ cho nhau tỏ tường.
Bài giải cần chỉ ra số lần nàng Kiều đi kiệu, số lần đi xe, số lần đi ngựa, đi thuyền.
Về đi kiệu, theo thứ tự thời gian, ta có:
1 - Đi kiệu về nhà trọ (trú phường) với Mã Giám Sinh: “Kiệu hoa đâu đã đến ngoài. Quản huyền đâu đã giục người sinh li”.
2 - Đi kiệu về với Thúc Sinh sau khi thắng kiện và được Thúc Ông chấp nhận: “ Kíp truyền sắm sửa lễ công. Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao”.
3 - Bạc Hạnh thuê kiệu rước vào lầu xanh ở Châu Thai: “Mượn người thuê kiệu rước nàng. Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa”.
4 - Đi kiệu về đại bản doanh Từ Hải: “Dựng cờ, nổi trống lên đàng. Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng cất sau”.
5 - Đi kiệu xuống thuyền Thổ Quan: “Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền. Lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao”.
6 - Đi kiệu cùng cả nhà sau khi gặp nhau ở thảo am bên sông Tiền Đường:
“ Kiệu hoa giục giã tức thì. Vương ông dạy rước cùng về một nơi”.
Còn ba trường hợp khác, ở các câu 1372: "Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi"; câu 2135: "Thành thân mới rước xuống thuyền", và câu 2732: "Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư", Nguyễn Du có dùng chữ rước, nhưng chưa chắc đã dùng kiệu, vì chữ rước ở đây chỉ mang nghĩa là đón một cách trân trọng mà thụi.
Về đi ngựa:
1- Đi ngựa với Sở Khanh.
2- Đi ngựa với bọn Khuyển ,Ưng.
Về đi xe:
1-Đi xe (do ngựa kéo) một chuyến từ Bắc Kinh và Lâm Tri hết một tháng tròn.
Về đi Thuyền:
1- Đi thuyền theo bọn Khuyển, Ưng từ Lâm Tri về Vô Tich.
2- Đi thuyền theo Bạc Hạnh đến Châu Thai.
3- Đi Thuyền trên sông Tiền Đường với thổ quan.
4- Đi thuyền trên sông Tiền Đường với Giác Duyên.
Câu đố đòi hỏi người giải đố dùng thơ lục bát khi trả lời, để lời giải là một bài thơ chuyển tải được phần nội dung trên kia. Lời giải không hạn chế số câu thơ nhưng nên tránh dài dòng, lang thang quá xa nội dung câu hỏi. Sau đây là ví dụ về bài giải đố coi là đạt yêu cầu:
Người ta xe, ngựa thì vui
Thuý Kiều xe, ngựa ngậm ngùi, gian truân
Nổi chìm trong cuộc trầm luân
Kiệu hoa sáu chuyến, ba lần lệ rơi.
- Biệt quê, thương chửa hết lời
"Kiệu hoa đâu đã đến ngoài", giục đi
- Sắc, tài thắng kiện Lâm Tri
"Kiệu hoa cất gió" ai bì xênh xang.
- "Mượn người thuê kiệu rước nàng"
Châu Thai, Bạc Hạnh tìm đàng trốn mau.
- Trúc tơ trước, kiệu vàng sau
Chờ Từ Công chỉ ít lâu, phỉ nguyền.
- Mất chồng, Tôn Hiến ép duyên
"Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền" thổ quan
- Gặp nàng nương chốn thảo am
"Kiệu hoa giục giã" cả đoàn về mau
- Sở Khanh kế hiểm, mưu sâu
"Song song ngựa trước ngựa sau " lừa nàng
- "Khuyển, Ưng đã đắt mưu gian"
"Vực ngay lên ngựa" mơ màng thuốc mê
- Bán mình, nàng phải theo xe
Giám sinh họ Mã dẫn về Lâm Tri.
Thuyền thì bốn lượt từng đi:
Lần đầu mê thuốc biết gì Kiều ơi
Lần hai Bạc Hạnh nuốt lời
“Thuyền vừa áp thẳng tới nơi” bán nàng.
Lần ba, lần bốn Tiền Đường
Một thuyền oan nghiệt, cưu mang một thuyền.