Nhà thơ Trần Quang Quý sinh ngày 02 tháng 01 năm 1955, tại xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Ông từng tham gia quân đội từ năm 1971 đến 1977 và từng là lính chiến trường miền Tây Nam Bộ trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ. Sau đấy ông về học Trường viết văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp, Trần Quang Quý đã trải qua nhiều công việc trong nghề báo, từng làm Tổng biên tập báo Gia đình và Xã hội. Ông là Uỷ viên Hội đồng Thơ - Hội Nhà văn Việt Nam khoá VIII (2005 - 2010), Phó Giám đốc, Phó Tổng biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn cho đến lúc nghỉ hưu.
Ông từng nhận được một số giải thưởng quan trọng như: Giải nhì thơ tạp chí Văn Nghệ Quân đội, 1984; Giải thơ tuần báo Văn Nghệ các năm 1990, 1995; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Giấc mơ hình chiếc thớt”, 2004; Giải thưởng Hội Nhà văn cho tập thơ “Màu tự do của đất”, 2012 và Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật, đợt IV, 2016.
*
1.
Đến thời điểm hiện tại, Trần Quang Quý hiện có trong tay một lưng vốn chủ yếu là thơ, tuy còn khá khiêm tốn về số lượng, nhưng lại khá nặng ký về chất lượng gồm: “Viết tặng em trong ngôi nhà chật”, 1990; “Mắt thẳm”, 1993; “Giấc mơ hình chiếc thớt”, 2003; “Siêu thị mặt”, 2006; “Màu tự do của đất”, 2012; “Namkau”, “Ga sang”, 2016; tập thơ song ngữ Việt - Anh “The Human Field” (Cánh đồng người - Nxb. World Palace Press, Mỹ), 2017. Ngoài ra ông còn có một tập truyện ngắn “Bờ sông trăng sang”, 2010; kịch bản phim truyện “Lời sám hối muộn mằn”, “Chị Châu” (đã phát trên VTV3); tập tiểu luận “Đốt đèn tìm lửa thơ”, 2014; tập bút ký “Bay lên, những giấc mơ”, 2017; nhiều bút kí, tản văn...
Những gì làm cho thơ, tất cả đều không thể hiện ra trên gương mặt cũng như thân hình vạm vỡ của ông. Bỏ qua dáng vẻ bên ngoài, tiệm cận đến những phát ngôn, suy tư về thơ ca, Trần Quang Quý rất ít khi nói về thơ cách tân, thơ đổi mới hay thơ hậu hiện đại, tân hình thức, hiện thời plus... trên các diễn đàn văn chương chính thống, như một số người khác. Có lẽ ông thích sống thơ, thở thơ, thức thơ và ngủ cũng thơ, hơn là cao đạo diễn giải về thơ, dù ai đó muốn thế nào ông cũng mặc. Ông có mối bận tâm của riêng mình trong tư cách một nhà thơ đích thực. Trong hầu hết các cuộc đăng đàn về thơ, Trần Quang Quý dường như chưa bao giờ cao đàm, khoát luận bất cứ điều gì về thơ mình. Thơ của ông hay, dở ra sao, thuộc khuynh hướng, trường phái nào là việc của công chúng tiếp nhận, các nhà lý luận, phê bình văn học và thời gian. Còn ông chỉ khẽ mỉm cười. Có lẽ ông đúng (!?). Chính ông đã từng chia sẻ điều này:
“Tôi ăn ngủ chữ, tháp tùng chữ bước vào những số phận
những ngóc ngách cuộc đời, những giao thoa chưa cất thành lời
những cuộc phối sinh ngữ nghĩa
và khi ấy, những con chữ như không còn là chữ
hồn chữ thiên di
vương quốc chữ tự do bay ngoài trang sách”
(Đời chữ).
Nói đến thơ Trần Quang Quý, điều đầu tiên cần khẳng định rằng ông có một giọng rất riêng, khó trộn lẫn với bất cứ ai dù họ thuộc thế hệ nào, chống Pháp, chống Mỹ, hậu chống Mỹ hay từ sau đổi mới (1986) đến nay. Họ thuộc khuynh hướng hay trường phải thơ nào: truyền thống cổ điển, thơ ca cách mạng, cách tân trên cơ sở truyền thống hay cách tân do du nhập các trường phái thơ từ các nước Âu - Mỹ, ông cũng không mấy bận tâm.
Phần lớn thơ Trần Quang Quý có xuất phát điểm là tình yêu đã trở thành nỗi khát thèm thường trực với quê hương, đất nước, những người nông dân cần cù, một nắng, hai sương, suốt đời bán mặt cho đất, bán lưng cho giời ở miền đất nghèo trung du Phú Thọ quê ông, cũng như các miền quê khác, nơi ông từng có dịp đặt chân đến từ khu IV đến các tỉnh miền Tây trong thời chiến tranh chống Mỹ khi ông còn là một người lính và trong những chuyến đi công tác hay thăm thú bạn bè sau này. Có thể nói cảm thức làng là mạch nguồn xuyên suốt trong các tập thơ của ông. Trước hết ta hãy đọc một vài đoạn thơ Trần Quang Quý viết về làng:
“Con đường chiều quê xiêu xiêu gánh rạ
Thăm thẳm bờ đê dốc hun hút gió
Cối trầu trong khuya cầm canh đèn đỏ
Cựa mình hạt ơi!
...
Ta nghe sương rơi ta nghe mưa rơi
Mà nghe mẹ thở nghẹn từng âu lo”
(Hát gọi hạt giống)
hay:
“Những thửa ruộng
Nh¬ư con dấu vuông đóng dấu đời ng¬ười trên bùn đất
Giọt mồ hôi truyền kiếp
Loang áo s¬ương, bạc mắt ngư¬ời thân
Đất sinh nở những mùa vô định”
...
“Nơi ông bà tôi đã yên rồi
Bóng dáng ng¬ười di cảo trong hạt thóc
Ng¬ười nông dân đi suốt đời mình
Còn truyền lại l¬ưỡi cuốc cùn như¬ báu vật
Tất cả cùng hái gặt trên cánh đồng này
Và cánh đồng đã gặt hái họ”
(Cánh đồng),
và:
“Lớp gạch già lõm mặt
Cánh cổng lăn kẽo kẹt đời người”
...
“Thế giới vào làng luồn mái tam quan
Có bầy chim cắp mùa lên tổ
Có những nỗi đời lót trong rơm rạ
Có một nỗi lòng giắt một nỗi quê”
...
“Cổ tích làng tôi đựng trong chiếc mủng
Mẹ bưng tháng năm lệch ngõ
Bưng những hạt thóc lép đi qua cơn gió
Bưng những nỗi đời đi giũ ở bờ song”
(Cố tích làng).
Với một người suốt đời đau đáu nỗi làng, thương những người thân yêu của mình nơi làng quê, cũng như những người nông dân ở các làng quê Việt Nam khác như thương chính bản thân, thì thơ viết về làng của Trần Quang Quý không còn là thơ theo nghĩa thông thường nữa, mà là máu tim ông chắt ra, âu cũng là xương thịt làng của ông vậy.
Xưa nay, thơ hay cốt ở cái tình dan díu, không thể dứt ra được ấy. Làng và người nông dân sống ở những ngôi làng ấy trong thơ Trần Quang Quý, dứt khoát không phải là cái cớ hời hợt, thoáng qua, cho những kẻ si tình à ới thành câu, ghép vần, tạo nhịp mà trước nay không ít người thường gọi đấy là thơ. Trái lại, làng và người làng, thực sự đã là một phần máu thịt của cuộc đời ông. Làng trong niềm vui được mùa, bưng bát cơm trên tay mà chan đầy mồ hôi và nước mắt. Làng bị quăng quật, bằm dập trong ngày ba tháng tám, khi giáp hạt, những lúc thiên tai nước trắng mặt người, nhưng muôn đời làng vẫn cứ tồn tại trong cái bản thể của nó, vô thủy, vô chung. Người dân làng trong thơ ông là:
“Tất cả cùng hái gặt trên cánh đồng này
Và cánh đồng đã gặt hái họ”.
Làng trong thơ Trần Quang Quý vừa thân quen, gần gũi, mộc mạc, thuần phát như bao làng quê truyền thống của Việt Nam, vừa đầy thân phận. Viết về sức sống làng một cách có ý thức và bền bỉ hàng chục năm trời mà không hề ngẫu hứng, bột phát nhất thời, không bị lặp lại chính mình là một việc khó lắm thay. Làng trong thơ Trần Quang Quý được nâng lên ở một tầm cao mới trong chiều sâu nhân bản của nó:
“Làng đã đóng đinh tôi vào cánh cửa
Mỗi ngày khép mở giữa câu thơ”.
Hay:
“Cổ tích làng tôi đựng trong chiếc mủng
Mẹ bưng tháng năm lệch ngõ
Bưng những hạt thóc lép đi qua cơn gió
Bưng những nỗi đời đi giũ ở bờ song”.
Rõ ràng làng trong thơ ông không đơn giản chỉ là một vùng đất cho những người nông dân quần cư, rồi sinh con, đẻ cháu, cũng không đơn giản là một mẫu số chung chỉ về một số nét văn hóa nào đấy mà người ta có thể chỉ mặt đặt tên được. Làng trong thơ ông như một thực thể tồn tại có thân phận hẳn hoi, một thân phận tổng thể và tổng hòa những thân phận cá nhân và những mối quan hệ xã hội của những người nông dân Việt Nam được chưng cất lên từ hàng ngàn năm lịch sử và được định vị lại trong tấm căn cước vĩnh hằng qua thơ của Trần Quang Quý:
“Lớp gạch già lõm mặt
Cánh cổng lăn kẽo kẹt đời người”.
Hay:
“Có những nỗi đời lót trong rơm rạ
Có một nỗi lòng giắt một nỗi quê”.
Vậy nên làng tồn tại trong thơ Trần Quang Quý không chỉ dừng lại ở cấp độ ý thức của một công dân làng, mà còn tồn tại cả trong vô thức của một thi sĩ sinh ra từ làng. Chính cái vô thức ấy mới là phần rường cột, căn cốt tạo nên một phong cách thơ mang đậm chất Trần Quang Quý mà chúng ta từng đọc.
Người phụ nữ nông dân được khắc họa với những góc cạnh xù xì, thô ráp, nhưng cũng rất đáng yêu, đáng thương và đáng trân trọng hơn. Họ không còn là những người chỉ biết có cần cù, hay lam hay làm, không sợ khó, sợ khổ, suốt đời chỉ biết thương chồng, thương con, như trong ca dao, dân ca và thơ ca truyền thống trước đây. Trái lại, người nông dân nước ta đang phải đối mặt với với một thực tế đa chiều, phức nhiễu trong cuộc mưu sinh của mình. Đọc những câu thơ Trần Quang Quý viết về họ khiến người ta phải chau mày, nhíu mặt, quặn đau trước thân phận của người nông dân nói chung và người phụ nữ nông thôn nói riêng từ bao đời nay, suốt đời chỉ mang theo mình giấc mơ về cái máng lợn:
“Tuổi xuân của em là nối dài những chiếc máng lợn
chiếc máng hầu bao hy vọng”
...
“những bến sông chôn đứng con đò
thành phố mọc từ bờ ẩn ức”...
(Huyền thoại bên máng lợn).
Theo ý kiển chủ quan của tôi, cảm quan làng, hình bóng làng, tâm thức làng và giá trị làng là tất cả những gì làm nên một Trần Quang Quý nghệ sĩ đích thực về làng và của làng. Và có thể nói phần lớn những bài thơ hay nhất của ông đều viết về mảng đề tài quen thuộc này với những ngôn từ và giọng điệu hết sức mạnh bạo đầy sức sống, đam mê khai phá con đường đi mới cho thơ Việt đương đại. Có thể nói, không phải Trần Quang Quý làm thơ về làng mà chính làng làm nên nhà thơ Trần Quang Quý.
2. Tuy nhiên không vì thế mà các mảng đề tài khác như trữ tình thế sự, tình yêu quê hương đất nước, môi trường sống,... ít được Trần Quang Quý quan tâm, né tránh hay bỏ qua. Minh chứng là trong những lần ngược miền Tây Bắc, nhà thơ cũng đầy hứng khởi, say sưa chia sẻ tận đáy lòng những buồn vui, cảm nhận của mình trước một thiên nhiên hùng vĩ và ngạo nghễ của non nước Việt Nam từ ngàn đời:
“Nào rượu nào rượu, ta với sông Đà!
Nâng một chén nghìn sau còn chảy”
(Uống rượu với sông Đà).
Rồi:
“Vạm vỡ ngực núi
Tây Bắc nắn ánh mắt ta thành những gợn song
Tây Bắc nắn cảm giác ta xoáy những vòng váy lượn
Em hây hẩy núi đồi
Ngựa chùng chân quỳ gối
Lam khói lên. Lam khói biếc ta rồi”
...
“Ta nhớ một chiều Tây Bắc
Bạn nhìn ta hun hút về xuôi
Mỗi thung lũng lõm một vùng thân phận
Bạn ơi, bạn đâu biết có một viên đá cuội
Đã mang ta găm lại núi đồi”.
(Nhớ một chiều Tây Bắc).
Hay khi xuôi vào miền Trung:
“em ứ hự… ca trù pha quan họ
sông về đâu ngơ ngác cả chiều mưa Diễn Châu!”
...
“Bến đò xưa dắt anh cổ tích
ngược con thuyền nằm loã thể trăng
chớp mi rủ bóng người thôn nữ
níu lòng ta khép mở sông Bùng”
(Chiều mưa sông Bùng).
Khi vào đến tận miền Tây sông nước, Trần Quang Quý vẫn mang theo đủ đầy sự hứng khởi vừa vạm vỡ, vừa tinh tế của một tấm lòng sẻ chia, một tâm hồn nhạy cảm mà không phải ai cũng có được:
“Ào ạt lướt rầm rầm ào ạt tạnh
giống em hay lúc giận lúc hờn
mưa lúc nhặt lúc khoan chiều sông Hậu
Mưa đầu Cần Thơ gửi đuôi Long Xuyên
mắt gửi mắt
tay gửi mềm tay ấm
chân gửi đâu mà cứng cả Cần Thơ”
...
“Mưa tong tả dạt anh về ngõ
tạnh em rồi
nhặt bong bóng cơn mơ”
(Mưa miền Tây)
Dưới con mắt của Trần Quang Quý, mỗi vùng đất, miền quê ông từng đặt chân tới đều có nhiều cái để ta đáng yêu, đáng quý, nhưng cũng không ít điều khiến nhà thơ phải suy tư, trăn trở. Với một nội lực sáng tạo như ông, ở đâu, cái gì cũng đều có thể trở thành đề tài cho vần thơ cất cánh và tỏa sáng.
Rõ ràng cách nhìn của Trần Quang Quý về một đề tài tuy không mới, nông dân và nông thôn, nhưng đã không lập lại cảm quan thẩm mỹ nghiêng về tính chất ngợi ca như thơ của nhiều thế hệ cha anh đi trước khi chỉ nhìn thấy ở những người nông dân và thiên nhiên ở vùng nông thôn nước ta toàn điều tốt đẹp. Ông đã nhìn thấy ở những người nông dân từ xa xưa cho đến tận hôm nay như một thực thể tồn tại trong sự vận động đa chiều với nhiều sắc màu của thân phận nổi trôi lúc trầm, lúc bổng, khi thăng, khi giáng dưới một cảm quan thẩm mỹ mới. Đấy chính là nỗ lực vượt qua rào cản của cái cũ và vượt qua chính mình để Trần Quang Quý có được những thành công về thơ cách tân trên cơ sở truyền thống dân tộc mà vẫn rất hiện đại. Giải thưởng Nhà nước mà ông vừa được trao tặng đợt IV, 2016 vừa rồi là một minh chứng sinh động nhất ghi nhận những đóng góp của ông trong tiến trình đổi mới thơ ca nước nhà./.