ĐÔI ĐIỀU VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC PHÁP
Bùi Minh Trí sưu tầm và giới thiệu
*VĂN HÓA PHÁP
Nói đến Pháp là nói đến một đất nước với văn hóa lớn , truyền thống lâu đời.
Văn hóa truyền thống của Pháp thể hiện qua rất nhiều khía cạnh từ nghệ thuật đến con người như các công trình kiến trúc tinh tế, các viện bảo tàng, nhà hát, nhà thờ (đặc biệt nổi tiếng thế giới là tháp Eiffel, nhà thờ Notre Dame, viện bảo tàng Louvre), những cây cầu, những cung điện, hay đơn giản những con phố, những quán cafe... hay những thói quen lịch sự, trang trọng của người Pháp như văn hóa ăn mặc, trang trí, giao tiếp... Tất cả đều thể hiện rõ nét, đặc trưng của nền văn hóa Pháp lâu đời. Là niềm tự hào của người Pháp, nền văn hóa pháp đa dạng phong phú và có sự ảnh hưởng nhất đính đến hầu hết các nền văn hóa khác trên thế giới. Đặc biệt là ở thủ đô Paris hoa lệ - nơi hội tụ nhiều công trình vĩ đại, mang tầm vóc quốc tế. Những công trình này vẫn luôn luôn được người dân Pháp xem như di sản trân quý của đất nước,và được lưu giữ, bảo vệ và trùng tu thường xuyên. Ngoài ra, chính phủ pháp rất coi trọng tinh thần tự hào dân tộc trong từng cá nhân thông qua các hành động bảo vệ di sản, do vậy Pháp có nhiều chương trình nhằm khuyến khích và nâng cao tinh thần bảo vệ nền văn hóa nước Pháp như
" Ngày bảo tàng", "Ngày di sản"... hay những ngày lễ kỉ niệm, quảng bá nền văn hóa Pháp.
*VĂN HỌC PHÁP
Chúng ta không thể nói văn học nước nào ưu việt nhất, nhưng cũng khó phản bác về vai trò nổi trội của văn học Pháp, ưu thế của nó được duy trì từ thế kỷ XVII đến nay. Sau thời cận đại thì Châu Âu phát triển nhất, trong đó mạnh nhất là Pháp, văn hóa sáng lạn nhất cũng là Pháp. Chủ nghĩa cổ điển ở Pháp đã thống trị Âu châu suốt hai thế kỷ, giới thượng lưu ở các nước khác đều xem việc nói được tiếng Pháp là niềm tự hào.
Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa lãng mạn của Victo Hugo, chủ nghĩa hiện thực phê phán của Honoré de Balzac, chủ nghĩa tự nhiên của Esmiie Zola, đều ảnh hưởng sâu sắc đến văn học toàn thế giới.Trường phái thơ ca theo chủ nghĩa tượng trưng cũng như vậy.
Vào thế kỷ XIX và XX, nước Pháp đã xuất hiện rất nhiều nhà văn có tầm vóc thế giới. Vào nửa đầu thế kỷ XX, những nhà văn giành giải Nobel có Romain Rolland (1866 - 1944), Anatole France (1844 - 1924), André Gide (1869 - 1951) và François Mauriac (1885 - 1970)… Họ đều là nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực, đã có những ảnh hưởng lớn đến Thế giới. Những nhà văn được giải vào nửa sau thế kỷ XX đều là nhà văn của chủ nghĩa hiện đại, như Albert Camus (1913 - 1960) được giải năm 1957, Jean-Paul Sartre (1905 - 1980) năm 1964, Samuel Beckett (1906 - 1989) năm 1969, nhà văn theo phái tiểu thuyết mới Claude Simon (1913 - 2005) ….
Chúng ta đã được đọc các tác phẩm bất hủ của Văn học Pháp như: các tác phẩm của Mô-li-e từ Đông Juăng(1665), Anh ghét đời(1666),Tác tuýp(1664 - 1669) và đỉnh cao là Lão hà tiện (1668); các tác phẩm của Văn hào Vícto Huygo từ Những người khốn khổ đến Nhà thờ Đức bà Paris; các tác phẩm của Xtăng - đan (Stendal 1783 - 1842), Tu viện thành Pác- mơ (1838), Ly - xiêng Lơ - oen (1835) và Đỏ và đen, tác phảm của Ban - zắc (Honoré de Balzac1799-1850) Tấn trò đời . Chúng ta còn được đọc truyện ngắn của Merimê (Prosper Mérimée 1803 - 1870), Môpaxăng (Maupassant 1850-1893) - một nhà văn hiện thực lớn sau 1848, tiểu thuyết của Flôbe (Gustave Flaubert 1821-1880) hay nhất là Bà Bô-va-ri, Ê-min Zô – la (Esmiie Zola1840- 1902), người được xem là đứng đầu trường phái “tự nhiên chủ nghĩa”. Chúng ta say mê đọc tác phẩm của hai cha con nhà văn M. Đuy-ma với Ba chàng ngự lâm pháo thủ, Bá tước De Monte Cristo. Với An-phông- xơ Đô- đê chúng ta đọc Những ngôi sao. Rồi phải kể đến Rô - manh Rô –lăng trong những trang văn bác học, dào dạt cảm xúc.
Xin mời các quý vị độc giả xem tóm tắt một số tác phẩm:
Molière tên thật Jean – Baptiste Poquelin (1622 – 1673), là nhà hài kịch vĩ đại của nước Pháp và của nhân loại. Ông được đánh giá là "người hề vĩ đại" trong nền văn học Pháp. Ông là niềm tự hào không chỉ của nhân dân Pháp mà còn là niềm kiêu hãnh của cả lịch sử sân khấu thế giới. Nhà hài kịch Pháp. Lão hà tiện là một trong những vở hài kịch tiêu biểu của ông. Vở kịch được công diễn lần đầu vào ngày 9/9/1668 trên sân khấu của Hoàng cung. Tác phẩm được tác giả lấy từ đề tài tác phẩm Cái hũ vàng của Plautus, nhà viết kịch nổi tiếng thời La mã cổ đại.
Tóm tắt:
Hồi 1: Arpagông là một ông lão có tính tình keo kiệt, cực kì hà tiện, luôn nghi ngờ mọi người. Ông có một người con gái là Êlydơ và người con trai là Clêăngtơ. Ông không hề quan tâm đến con cái, không thiết tha tình nghĩa cha con chỉ suy nghĩ đến tiền bạc mà nghi ngờ cả hai đứa con của mình. Êlydơ và con trai của Anxenmơ là Valedơ yêu nhau tha thiết nhưng mắc phải sự phản đối của Arpagông, ông ép bắt con gái mình cưới một ông già ngoài năm mươi tuổi có tiền của vì ông ấy chả cần của hồi môn. Anh trai của nàng cũng gặp vào hoàn cảnh éo le khi người chàng yêu là cô gái hiếu thảo nền nả Marianơ lại bị chính cha mình đòi lấy làm vợ. Bất đồng về sự ép buộc của cha mình, hai anh em giả vờ nghe theo lời cha dặn mà lên kế hoạch lẫn trốn
Hồi 2: Clêăngtơ cần một khoản tiền vì vậy chàng nhờ Lafleso hỏi bác cả Ximong mượn vay, nhưng ai ngờ người cho vay nặng lãi cắt cổ lại chính là cha chàng Arpagông. Vậy là mâu thuẫn lại xảy ra với hai người chàng bảo cha mình là người ăn hết tiền bạc của người khác. Cha chàng bảo lại chàng là kẻ dấn thân vào vòng nợ nần. Tình cảm cha con rạn nứt người này nói một câu kẻ kia phát lại một câu. Còn về việc cưới hỏi Marianơ ông lão hà tiện cho kêu mụ mối Frôdinơ giúp đỡ. Vậy là mụ mối ra sức nịnh nọt dùng lời hoa mĩ miêu tả khen ngợi Arpagông hồng để kiếm mối hời nào đó nhưng lại nhận được sự phũ phàng khiến mụ tức giận
Hồi 3: Arpagông mở tiệc thiết đãi và mời được nàng Marianơ đến. Ông sai bọn đầy tớ và con mình chuẩn bị bữa tiệc thật chu đáo và chất lượng nhưng lại không chịu bỏ tiền ra mà trái lại còn tính toán chi li từng chút để làm sao không lỗ một đồng nào, khiến mọi người phật ý đặc biệt là bác cả Giắc. Valedơ vì để yêu được Êlydơ nên ra sức nịnh hót ông lão hà tiện, nên gây xích mích với bác cả Giắc. Khi Marianơ đến dự tiệc cô cảm thấy không thể chịu nổi Arpagông và hơn hết người cô yêu là Clêăngtơ. Vì cả hai bên điều bị ép vào tình thế éo le đến vậy. Clêlăngtơ bày kế đưa nhẫn kim cương của cha mình biếu tặng Marianơ làm ông tức điên lên.
Hồi 4: Clêăngtơ, Elydơ và nàng Marianơ xin sự giúp đỡ của mụ mối Flôdinơ làm sao để gỡ rối đương sự bi kịch này. Flôdinơ nghĩ một phần cũng lỗi phần mụ nên ra kế hoạch thuê một mụ đàn bà đóng giả quý phu nhân nhiều tiền yêu mến lão Arpagông và nguyện đem hết của cải trao tặng nếu lão chịu cưới làm vợ. Đó là một kế hoạch tuyệt vời. Lafleso tranh thủ cơ hội lão và Clêăngtơ tranh cãi nhau về Marianơ mà đánh cắp được tráp tiền của một vạn êquy của lão. Lão phát hiện bị mất thì tức phát điên truy lùng và nghi ngờ tất thảy mọi người.
Hồi 5: Khi Viên cánh cẩm điều tra vụ mất trộm cho ông Arpagông, ông nghi ngờ tất cả mọi người và bắt nhốt tất cả vào tù. Người đầu tiên điều tra là Bác cả Giắc và vì mối thâm thù lúc trước với VaLedơ mà bác đổ lỗi cho anh. Cũng nhờ vậy mà trong phiên điều tra Valedơ tìm ra người em gái ruột là Marianơ và người cha ruột Anxenmơ khi gia đình họ thất lạc nhau trong vụ đắm tàu cách đây mười sáu năm. Nhân đó Clêăngtơ lấy cớ nếu cha Arpagông cho phép chàng lấy Marianơ làm vợ thì tráp tiền của ông sẽ về với ông. Lão hà tiện vừa muốn được lại tráp nhưng lại sợ tiền chi cho đám cưới nhiều mà dậm dờ. Khi đó Anxenmơ vì nhận ra được con cái gia đình mình mà vui mừng chấp thuận và đồng ý chi tiền cho hai vụ đám cưới thế là Arpagông đồng ý theo. Cuối cùng thì ông cũng có được cái tráp báu vật mà ông luôn tôn thờ còn hai đứa con của Arpagông sau bao nhiêu đấu tranh cuối cùng được sự giúp đỡ của ông Anxenmơ mà đến được với nhau
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ của VICTOR HUYGO
Những người khốn khổ (Tiếng Pháp: Les Misérables) là tiểu thuyết của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19. Bản thân Những người khốn khổ có rất nhiều câu chuyện, nhân vật với những cuộc đời khác nhau, nhưng sợi dây nối những mảnh đời riêng biệt này lại là câu chuyện về Jean Valjean, người cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. Tóm tắt:
Sau 19 năm ngồi tù với số tù 24601 vì ăn cắp một chiếc bánh mì cho con của người chị gái, người nông dân Jean Valjean được thả. Tuy nhiên anh phải mang theo giấy thông hành vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó từng phạm tội, vì vậy Jean bị chủ quán trọ từ chối và buộc phải ngủ ngoài đường. May cho anh là Giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu. Khi mọi người đã ngủ, Jean lại ăn cắp mấy thứ đồ bạc của Giám mục và chạy trốn, anh bị bắt lại sau đó, nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay, vị Giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người.
Tám năm sau Valjean, nay mang tên ông Madeleine, đã trở thành một chủ xưởng giàu có và là thị trưởng thành phố nhỏ nơi ông sinh sống, Valjean phải mang tên giả để tránh sự phát hiện của thanh tra Javert vẫn đang truy tìm ông ráo riết. Tuy nhiên số phận buộc Valjean phải để lộ danh tính của mình khi một người đàn ông khác bị nhầm là Jean Valjean và bị bắt đưa ra tòa. Cùng lúc này, Valjean gặp Fantine, một cô gái đang hấp hối sau khi bị đuổi việc khỏi công xưởng của ông và buộc phải làm nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette, em đang phải sống với gia đình nhà Thénardier độc ác. Trước khi Fantine chết, Valjean hứa với cô sẽ chăm sóc Cosette cẩn thận, ông trả tiền cho lão chủ quán trọ Thénardier để giải phóng cho Cosette và cùng em chạy trốn lên Paris khỏi sự truy đuổi của Javert. Ở Paris, hai người trú trong một nhà tu kín mà Javert không được quyền khám xét, vì vậy họ tạm thoát khỏi sự truy lùng gắt gao của viên thanh tra.
Chín năm sau, sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche. Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, trở thành những kẻ lang thang trộm cắp, sau khi thỏa thuận với Javert về việc giao nộp Valjean cho hắn, bọn họ đã tìm cách đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến thăm Cosette. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu chàng sinh viên và cô đã thuyết phục bọn chúng rời khỏi đó.
Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Javert đã trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhưng bị Gavroche phát hiện và Enjolras đã bắt giữ hắn. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Ông đã xin Enjolras thả Javert. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn.
Marius và Cosette cưới nhau. Trước lễ cưới, Valjean đã kể hết cho Marius về quá khứ của mình. Ông quyết định bỏ đi mà không hề cho Cosette hay biết. Trong lễ cưới, vợ chồng Thénardier cải trang và trà trộn thành những người quý tộc để trộm cắp. Tuy nhiên, bọn chúng bị Marius phát hiện và yêu cầu rời khỏi lễ cưới. Gia đình Thénardier vô tình tiết lộ về việc Valjean đang "ở ẩn" trong một thánh đường và yêu cầu Marius phải cho chúng một khoản tiền nếu muốn việc này không đến tai cảnh sát. Mãi sau đó khi Valjean đã hấp hối, Marius mới nhận ra được lòng tốt của ông và chạy đến nhà Valjean cùng Cosette. Valjean chỉ còn kịp tiết lộ cho hai người về quá khứ của mình và rằng ông chỉ là người cha nuôi của Cosette trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Ông cũng đã có niềm hạnh phúc khi ở bên là đứa con gái nuôi yêu quý và con rể. Ông nói với họ rằng ông rất yêu quý họ, sau đó Valjean qua đời.
ĐỎ VÀ ĐEN của XTĂNG – ĐAN (STENDAL)
Đỏ và đen (tiếng Pháp: Le Rouge et le Noir) là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stendhal, được xuất bản vào năm 1830. Tiểu thuyết mô tả về những nỗ lực của một người thanh niên trẻ vượt lên khỏi tầng lớp xã hội dưới của bản thân nhờ tài năng, làm việc chăm chỉ, mánh khóe và đạo đức giả, chỉ tìm thấy chính mình khi bị phản bội bởi chính người yêu của anh ta.
Tóm tắt:
Nhân vật trung tâm là Julien Sorel một nhân vật "kiểu Stendhal" (Stendhalien) được tác giả thể hiện qua hầu hết các nhân vật trong các tác phẩm của ông. Julien Sorel với vẻ đẹp thanh tú, hơi xanh xao nhưng thông minh sắc sảo, đầy cá tính và có nhiều tham vọng. Anh là một thanh niên thuộc giai cấp bình dân, là con một người xẻ cây ở địa phương Veriere nước Pháp. Vì vậy, Julien Sorel luôn luôn ấp ủ trong lòng giấc mơ thành đạt và tự khẳng định cá nhân mình bằng danh vọng, vinh quang cho dù bằng con đường nào. Vì tham tiền, bố Julien Sorel đã buộc anh vào làm gia sư cho gia đình thị trưởng De Rênal. Tại đây, anh bị chinh phục một phần vì vẻ đẹp dịu dàng đài cát của bà De Rênal, còn một phần khác anh vẫn là một con người đứng ngấp nghé ở bên cánh cửa của xã hội thượng lưu và đang muốn chinh phục nó. Anh đã bắt đầu cuộc chinh phục ấy bằng cách chinh phục một người phụ nữ trong hàng ngũ của nó. Bà De Rênal là một phụ nữ đa cảm, từ lâu vẫn sống trong sự phục tùng với ông chồng dốt nát, thô thiển và nhiều tuổi hơn mình. Nên bà đã bị tính cách mạnh mẽ cộng với vẻ quyến rũ của chàng gia sư trẻ tuổi này chinh phục. Cuộc tình vụng trộm đầy thơ mộng xảy ra không được bao lâu thì có dư luận bàn tán. Ở Veriere vẫn luôn có những tranh chấp ngấm ngầm về quyền lợi và danh vọng giữa những người có quyền thế lúc nào cũng ganh ghét soi mói nhau, nên thị trưởng De Rênal rất sợ tai tiếng làm tổn hại đến thanh danh hơn là đau khổ vì việc vợ ngoại tình, Julien Sorel buộc phải ra đi để bảo toàn danh dự cho bà De Rênal. Anh được một tu sĩ đỡ đầu, cho vào học tại chủng viện, mong sau này có chút chức sắc trong giáo hội để làm phương tiện đi lên (trong xã hội trước Cách mạng tư sản Pháp (1789) được chia thành 3 đẳng cấp: quý tộc, tu sĩ nhà thờ Thiên Chúa giáo, tư sản). Tại trường thần học, Julien Sorel không thể chịu đựng nổi lối sống và thiết lập mối quan hệ với những người xung quanh. Nên cách mượn phương tiện "áo chùng đen" của anh không thể thực hiện được. Anh lại được gửi đến làm thư ký riêng cho Hầu tước De La Môle, một gia đình thế gia vọng tộc của Pháp. Do thông minh, có năng lực và nhất là có cá tính đặc biệt, ngoại hình thu hút quyến rũ nên Julien Sorel đã tạo cho mình một nét riêng trong xã hội thượng lưu đầy nghi thức nhàm chán của những con người sáo rỗng giả dối. Nên một lần nữa, anh được Hầu tước tin dùng và yêu thích. Con gái hầu tước là tiểu thư Mathilde, một cô gái thông minh, kiêu kỳ và có cá tính mạnh mẽ đã dần dần bị chinh phục bởi sự vượt trội của Julien Sorel so với những chàng trong đám quý tộc mà cô đã tiếp xúc. Trong mối quan hệ nửa tình yêu, nửa tính toán, vừa say mê vừa tỉnh táo này, Julien Sorel tưởng như mình đã đạt đến mọi vinh quang khi biết Mathilde có thai. Chính điều này, nên hầu tước buộc lòng phải thu xếp và bằng mọi cách quý tộc hóa người thư ký của mình và tạo tương lai danh vọng cho anh bằng sắc nhung phục "đỏ" của con đường binh nghiệp để xứng đáng trong cuộc hôn nhân với Mathilde. Do áp lực của thế lực tôn giáo ở địa phương (Veriere), vốn không ưa gì sự thành đạt quá nhanh của những thanh niên hãnh tiến như Julien Sorel, nên bà De Rênal bị buộc phải viết thư tố cáo với hầu tước về mối quan hệ giữa Julien với bà trước đây. Mọi sự vỡ lở, Julien Sorel bị tổn thương nặng, nên đã từ chối mọi sự đính chính cần thiết để cứu vãn tương lai. Anh trở về Veriere rình bắn bà De Rênal, dù bà không chết, anh vẫn bị kết án tử hình. Anh từ chối mọi sự bào chữa của luật sư để chống án khi anh đã nhận thức được rằng mình đã mắc tội lớn vì dám mơ màng tới việc ngoi lên khỏi thân phận thường dân. Anh thấy rằng mình vẫn yêu bà De Rênal dù bà đã đẩy anh đến đường cùng. Bà De Rênal cũng mất đột ngột sau vài hôm Julien Sorel bị xử tử.
TẤN TRÒ ĐỜI của BAN – ZĂC (HONORÉ DE BALZAC)
Tấn trò đời (tiếng Pháp: La Comédie humaine) là tập hợp loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, kỳ ảo và tiểu luận được xuất bản từ năm 1829-1850 của đại văn hào Honoré de Balzac. Tấn trò đời được xem là "một trong những công trình bát ngát mênh mông nhất mà một con người dám đơn độc cấu tứ".
Tấn trò đời gồm 137 tác phẩm trong đó có 87 tác phẩm đã hoàn thiện (tiểu thuyết, tiểu luận, khảo cứu), 49 tác phẩm còn bỏ ngỏ (trong đó có một số tác phẩm chỉ có tên tựa đề) và một cuốn được gộp chung với cuốn khác. 137 tác phẩm này được Balzac gộp lại vào năm 1842 chia thành 3 phần: nghiên cứu về thói quen, nghiên cứu triết học và nghiên cứu bản chất.
Những tác phẩm trong Tấn trò đời vừa gắn kết với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập. Người ta có thể hiểu một tác phẩm mà không cần đọc các tác phẩm còn lại. Những câu chuyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp lại, xuất hiện nhiều lần. Ví dụ trong chuyện này, nhân vật A có thể là nhân vật chính, nhưng trong chuyện khác anh ta lại là nhân vật phụ, là một người có liên quan đến nhân vật chính. Balzac quan niệm xã hội là một chỉnh thể, tất cả các sự kiện đều tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau một cách hết sức chặt chẽ như trong giới tự nhiên. Tất cả những đặc điểm ấy gây cho độc giả ấn tượng như đang sống trong một xã hội có thực.
Tuy nhiên, những tác phẩm trong Tấn trò đời là một khối thống nhất vì tất cả cùng vẽ nên bức tranh xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ 19.
Tựa đề "Tấn trò đời" được Balzac đặt theo tên tác phẩm Thần khúc (Divina commedia) của Dante Alighieri (1265-1321). Balzac muốn cho thấy ý định của ông khi viết các tác phẩm trong "Tấn trò đời": tả về cái địa ngục ngay giữa xã hội con người. Nhà văn có dụng ý chọn cái tên đối lập với tên tác phẩm nổi tiếng của Dante có thiên đường và địa ngục.
Balzac đã có ý định tập hợp các tác phẩm từ rất sớm. Năm 1830, ông đã cho in 6 tác phẩm vào một quyển sách chung với nhan đề Cảnh đời tư. Hai năm sau Cảnh đời tư được bổ sung thêm hai tác phẩm nữa. Năm 1834 sự tập hợp mở rộng thêm một bước, nhiều tác phẩm được sắp xếp dưới một nhan đề chung là Khảo luận phong tục, chia làm 6 cảnh, đồng thời nhà văn còn dự kiến có thêm các phần Khảo luận triết học và Khảo luận phân tích. Năm 1842, ý định tập hợp và sắp xếp các tác phẩm thành hệ thống của Balzac mới thực hiện được đầy đủ.
BÀ BOVARY của GUSTAVE FLAUBERT
Bà Bovary (tiếng Pháp: Madame Bovary) là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Gustave Flaubert, được đánh giá là trau chuốt về nghệ thuật và hình thức. Khi xuất bản lần đầu tiên ở Pháp (dưới tên Madame Bovary, mœurs de province) tác phẩm đã trải qua một cơn sóng gió, bị công kích là mang "màu sắc dâm dật" và xúc phạm tới luân lý công cộng và tôn giáo. Tác giả cũng chịu số phận tương tự, ông bị truy tố ra toà. Trước tòa, để bênh vực tác phẩm và tác giả, luật sư bào chữa cho rằng, nhân vật chính trong truyện ngoại tình chỉ là do một chuỗi những đau khổ, ăn năn hối hận, rồi đi tới một hình phạt cuối cùng, một kết thúc bất ngờ đối. Chính ở chỗ kết cục đó mà cuốn sách rất mực đạo đức và bổ ích. Rốt cuộc, chính ủy viên công tố cũng phải thừa nhận tác phẩm là một bức tranh tuyệt vời về mặt tài nghệ nhưng là một bức tranh đáng báng bổ về mặt đạo đức, có hại cho luân lý xã hội, song tác giả được tuyên bố vô can. Từ vụ án có một không hai đó (năm 1857), đã gây nên một tiếng vang lớn trong dư luận đương thời và làm nó trở lên nổi tiếng. Sau khi được tuyên bố trắng án nó trở thành một cuốn sách bán chạy nhất trong năm 1857.
Nội dung :
Tác phẩm bắt đầu bằng việc giới thiệu Charles Bovary, một anh chàng lớn con thực thà và chậm chạp, làm đối tượng gây cười cho bạn bè trong lớp vì vẻ "thộn" của mình, là loại người không có cá tính không có khả năng gây ra một sự ngạc nhiên nào cho ai. Tuy vậy, anh ta hiền lành chăm chỉ, tuy không thông minh nhưng cũng lên lớp đều đều rồi theo học y sĩ, cuối cùng "ra trường một cách vất vả", và về quê làm nghề thầy thuốc.
Là người con ngoan ngoãn không bao giờ có ý kiến và quan niệm riêng, Charles đã cưới một bà góa lớn tuổi "nghe đồn là khá giả" theo sự quyết định của bố mẹ anh ta. Cuộc hôn nhân cũng êm ả nếu không có sự ghen tuông của vợ anh ta. Nhất là từ khi Charles đi chữa bệnh cho một chủ trại và quen biết với con gái ông ta, cô Emma. Người vợ lớn tuổi của anh ta chết sau một cơn uất ức. Một thời gian sau đó, Charles cưới Emma.
Emma là thiếu nữ có học, được nuôi dạy trong trường dòng cho đến năm 18 tuổi mới về nhà. Thay vì học giáo lý vì các khuôn phép, ra khỏi trường Emma chỉ còn giữ lại một tâm hồn lãng mạn khát khao đi tìm một bóng hình lý tưởng, như trong các tiểu thuyết mà cô đã đọc lén khi còn ở trường dòng. Về nông thôn chẳng bao lâu, Emma chán ngán cuộc sống tẻ nhạt, nhận lời lấy Charles và thất vọng sâu sắc ngay sau cuộc hôn nhân. Nỗi buồn chán càng tăng lên sau một lần cô tham gia vũ hội, những cảm giác ngây ngất khi được tiếp xúc với cái xã hội náo nhiệt phồn hoa như tiểu thuyết. Nhưng sau đó lại buộc phải trở lại sống một cuộc sống tẻ nhạt. Để vợ khuây khỏa, Charles đưa Emma lên Yonville. Họ có một đứa con gái, nhưng Emma chẳng ngó ngàng gì đến con, bỏ mặc nó cho người vú nuôi.
Một lần nữa Emma lại chán ngán cuộc sống ở đây, với những con người chán ngắt, xấu xí, dốt nát và giả dối nhưng được xem là thành đạt và khả kính - với những đại diện tiêu biểu như dược sĩ Homer, người thu thuế Binet... Emma đã gặp Léo Dupuis - một thanh niên đang là luật sư tập sự tại thành phố đó. Dù rất si mê Emma nhưng anh ta không dám ngỏ lời vì sợ ảnh hưởng đấn con đường sự nghiệp của anh ta hãy còn đang tập sự. Emma thất vọng và trong một buổi hội chợ của thành phố, cô gặp Rodolphe và sa ngã trước những lời tán tỉnh của hắn. Vì lúc ấy trong lòng Emma rất cô đơn trống trải đang mong đang cái gì đó khác với sự đơn điệu thường ngày; bên cạnh một ông chồng hiền lành nhưng thô kệch, đã từng thất bại một lần khi liều lĩnh giải phẫu chân cho một người bị tật trong khi Emma chờ đợi thành công để tìm đôi chút lý tưởng về anh ta.
Cuộc dan díu với Rodolphe kéo dài cho đến khi y chán Emma, còn cô thì muốn kết thúc mối tình lãng mạn là một cuộc bắt cóc và chạy trốn đầy say mê như trong tiểu thuyết. Thêm vào đó khi dan díu với Rodolphe, Emma đã bị một tên lái buôn là L'heureux gạ gẫm cô mua sắm không tiếc tay và cô bắt mắc nợ. Rodolphe lẩn trốn sau khi để lại một bức thư "đầy đau khổ", Emma lâm bệnh.
Một thời gian sau Emma gặp lại Léon. Lúc này anh ta đã là luật sư và không còn ngần ngại gì nữa. Emma lại lao vào cuộc dan díu mới và rồi kết thúc bằng sự chán nán cả Léon. Khi ấy thương gia L'heureux báo cho Emma biết cô đang mắc nợ rất nhiều và nếu cô không trả kịp thì hắn sẽ tịch thu tài sản. Emma hốt hoảng tìm đến các tình nhân cũ nhờ giúp đỡ nhưng đều bị từ chối. Không dám thú thật với chồng, Emma tuyệt vọng ra cửa hàng của dược sĩ Homer mua một liều thạch tín và tự tử. Cái chết đau đớn và vật vã của Emma làm cho Charles sa sút về thể xác lẫn tinh thần. Và ít lâu sau, anh ta đột ngột chết khi đang ngồi ngoài ngoài vườn với con gái. Câu chuyện kết thúc bằng việc gã dược sĩ Homer được thưởng huy chương Bắc đẩu bội tinh.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM của ALEXANDRE DUMAS
Ba người lính ngự lâm (tiếng Pháp: Les trois mousquetaires) là một tiểu thuyết của nhà văn người Pháp Alexandre Dumas cha, là cuốn đầu tiên của bộ ba tập truyện gồm Les Trois Mousquetaires, Vingt Ans après (Hai mươi năm sau), và Le Vicomte de Bragelonne (Tử tước de Bragelonne). Bộ tiểu thuyết kể về những cuộc phiêu lưu của chàng lính ngự lâm d'Artagnan, từ lúc anh còn trẻ cho đến lúc già. "Ba người lính ngự lâm" là cuốn nổi tiếng nhất và cũng là hay nhất trong bộ ba, đã được dựng thành phim nhiều lần, cũng như phim truyền hình, phim hoạt hình Pháp, và hoạt hình Nhật Bản.
Nội dung:
D'Artagnan là hậu duệ một dòng dõi quý tộc đã sa sút ở xứ Gascony. Năm 20 tuổi, chàng rời nhà trên một con ngựa còm để đến Paris với mong ước trở thành một lính ngự lâm của vua Louis XIII. Dọc đường, d'Artagnan làm mất lá thư tiến cử của cha mình với ông de Treville, đội trưởng lính ngự lâm, do đó ông này đón tiếp anh không mấy nhiệt tình. Tiếp đó, d'Artagnan húc trúng vào cái vai đang bị thương của Athos, một lính ngự lâm đầy phong cách quý tộc. Anh này đòi quyết đấu với d'Artagnan vào giữa trưa và được đồng ý ngay. Ngay sau đó, d'Artagnan gặp Porthos, một lính ngự lâm khác rất đô con và mang một dải đeo kiếm cực xịn nhưng d'Artagnan khám phá ra rằng chỉ có mặt ngoài là đẹp thôi, còn bên trong làm bằng da bò. Thế là d'Artagnan có cuộc quyết đấu thứ 2 vào sau buổi trưa. Cuối cùng d'Artagnan nhặt được một chiếc khăn tay của một lính ngự lâm đẹp trai tên Aramis (khăn của tình nhân của anh này), cãi nhau, và có cuộc hẹn đấu kiếm thứ 3 trong ngày. Đến các buổi hẹn đấu kiếm, d'Artagnan thấy 3 người kia đi cùng nhau, họ là bạn thân. Tuy nhiên luật hồi đó cấm đấu kiếm, và các vệ sĩ của Giáo chủ de Richelieu đến bắt họ. Một cuộc chiến diễn ra và d'Artagnan về phe các ngự lâm quân. Họ chiến thắng và d'Artagnan trở thành bạn thân của ba chàng lính ngự lâm kia. Phương châm của họ là "Một người vì mọi người, mọi người vì một người", một câu mà vế thứ hai được d'Artagnan lợi dụng rất tốt.
Tuy có những cái tên không hay ho và không quý tộc chút nào hết, rõ ràng cả ba anh lính ngự lâm đều là quý tộc và họ dùng tên giả. Athos tỏ ra là một quý tộc cỡ bự, và là người rất quý phái. Porthos thuộc loại thích khoe mẽ, còn Aramis là một anh lăng nhăng nhưng muốn làm mục sư. Tuy chơi với ba anh lính ngự lâm nổi tiếng, d'Artagnan không thể trở thành lính ngự lâm ngay được mà phải đi làm thị vệ của ông des Essart để có kinh nghiệm. D'Artagnan thuê một căn phòng, mướn một tên hầu là Planchet, và đem lòng yêu bà chủ nhà, bà Bonacieux. Bà này còn rất trẻ so với ông chồng già, và là chỗ quen biết với hoàng hậu Anne. Hoàng hậu không yêu đức vua Louis XIII, mà lại lăng nhăng với Quận công Buckingham. Bà đã đem chiếc chuỗi hạt kim cương mà đức vua tặng đem tặng lại cho người yêu. Hồng y giáo chủ de Richelieu biết được chuyện này và dùng kế nói đức vua buộc hoàng hậu phải đeo chuỗi hạt đi dự vũ hội. Thông qua bà Bonacieux, hoàng hậu nhờ d'Artagnan đến Luân Đôn lấy lại chuỗi hạt. Thế là d'Artagnan cùng ba người bạn lên đường đi nước Anh, nhưng dọc đường cả ba đều bị rớt lại do những lý do khác nhau, chỉ mỗi d'Artagnan đến được nước Anh và đem chuỗi hạt về. Đêm dạ hội, hoàng hậu đeo chuỗi hạt và ông giáo chủ bẽ mặt.
D'Artagnan lại quay lại để tìm các bạn mà anh bỏ lại dọc đường. Nhưng ông giáo chủ de Richelieu không phải là người dễ tha thứ, và bà Bonacieux bị bắt cóc. D'Artagnan không thể tìm được bà, nhưng lại gặp Milady de Winter, em dâu của bá tước người Anh de Winter, và là một phụ nữ quyến rũ. Như thế là anh kiếm được tình nhân đầu tiên. Tuy nhiên d'Artagnan sớm khám phá ra Milady có một bông hoa huệ trên vai, dấu ấn của một tội phạm, và cô ta chẳng phải người Anh mà là một gián điệp. d'Artagnan lợi dụng cô hầu Ketty của Milady để vạch mặt Milady và lừa được một chiếc nhẫn sapphire. Milady nổi khùng cầm dao rượt d'Artagnan nhưng anh chạy thoát được.
Giáo chủ de Richelieu ở La Rochelle.
La Rochelle nổi loạn và d'Artagnan phải lên đường ra trận trong khi lính ngự lâm vẫn chưa xuất phát. Cả bốn người đều nghèo đói và chuẩn bị quân trang là một thử thách lớn. D'Artagnan bán chiếc nhẫn lấy được từ Milady và chia đôi với Athos. Athos nhận ra chiếc nhẫn này là cái mà anh tặng vợ cũ của mình. Porthos đi lừa tiền của bà biện lý, bà này mê tít Porthos và lấy tiền của ông chồng già cho Porthos, cộng với con ngựa còm mà d'Artagnan trước đó đã bán đi. Aramis cũng kiếm được tiền từ tình nhân của anh. Ở La Rochelle, họ phát hiện ra Milady được lệnh đi ám sát Quận công Buckingham, để đổi lại cô ta muốn giáo chủ de Richelieu giết d'Artagnan. d'Artagnan phái tên hầu là Planchet đi báo tin cho Buckingham, và Milady bị bá tước de Winter tóm cổ ở Anh. Ở La Rochelle, d'Artagnan và ba người bạn đi ăn sáng và chống lại cả một "quân đoàn" của địch. Với chiến tích này, anh được lên chức làm ngự lâm quân. Hoàng hậu giải cứu được Constance Bonacieux và họ lập tức đi đến nơi cô bị giam giữ.
Trong khi đó, ở Anh, Milady đang ngồi tù. Cô bịa ra một câu chuyện rất hay để lừa sĩ quan gác ngục là John Filton thả cô ra. Filton còn ngốc hơn cô tưởng, và Milady lừa được anh rằng Quận công Buckingham là một kẻ độc ác còn cô chỉ là nạn nhân. Filton tin rằng một cô gái quá xinh đẹp như Milady không thể nói dối được. Anh giải thoát cho Milady.Thừa lúc mang lệnh đày Milady ra đảo cho Buckingham ký Filton thừa lúc sơ hở đâm Quận công một nhát chí mạng. Trong lúc đó Milady ra thuyền và chuồn thẳng về Pháp. Cô ta trốn ở chính tu viện là nơi mà bà Bonacieux đang ẩn nấp, và khi biết được Constance Bonacieux là ai, Milady đầu độc Constance để trả thù rồi bỏ chạy.
Sau khi chứng kiến người yêu chết trong tay mình, d'Artagnan cùng Athos (nay được biết là bá tước de la Fère, chồng đầu tiên của Milady), Porthos (tên thật là du Vallon), Aramis (tên thật là d'Herblay), bá tước de Winter (anh của chồng thứ hai của Milady, tìm cô ta để trả thù cho quận công Buckingham), và một người bí ẩn mặc áo choàng đỏ đi lùng khắp vùng Flanders để bắt Milady. Cô ta cuối cùng bị dồn vào đường cùng. Sáu người đàn ông bao vây một phụ nữ ở giữa, kể ra vô số tội lỗi của cô ta, rồi người mặc áo choàng đỏ đưa Milady ra thuyền để hành quyết. Khi trở về, d'Artagnan gặp giáo chủ de Richelieu. Ông này chẳng tỏ ra đau buồn gì vì dù sao Milady cũng đã hoàn thành nhiệm vụ giết Buckingham. Ông đưa cho d'Artagnan giấy lên chức trung úy ngự lâm quân.
D'Artagnan đem đưa giấy phong chức cho Athos, nhưng anh này cho biết mình sắp nghỉ hưu, và từ chối. d'Artagnan đưa cho Porthos nhưng anh này cho biết rằng ông biện lý già mới chết, anh sẽ cưới bà biện lý cùng tài sản khổng lồ mà ông biện lý già để lại. d'Artagnan đưa cho Aramis, nhưng anh này muốn trở thành mục sư chứ không làm lính nữa. Cuối cùng, d'Artagnan và các bạn chia tay. Và mãi 20 năm sau đó họ mới gặp lại nhau, khi mà d'Artagnan một lần nữa muốn lợi dụng phần "mọi người vì một người" của khẩu hiệu của họ (trong cuốn "Hai mươi năm sau", tập 2 của bộ truyện này).
* THƠ CA PHÁP
*Các nhà thơ nổi tiếng của Pháp là :
-Jean de La Fontaine (1621-1695),
-Guillaume Apollinaire (26 tháng 8 năm 1880 – 9 tháng 11 năm 1918)
–, Louis Aragon (3 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 12 năm 1982),
-Joachim du Bellay (1522 – 1 tháng 1 năm 1560),
-Jacques Romain Georges Brel (8 tháng 4 năm 1929 – 9 tháng 10 năm 1978), ---Jean Nicolas Arthur Rimbaud (20 tháng 10 năm 1854 – 10 tháng 11 năm 1891) ,
-Paul-Marie Verlaine (30 tháng 3 năm 1844 – 8 tháng 1 năm 1896),
-René Char (14 tháng 6 năm 1907 – 19 tháng 2 năm 1988),
-Paul Claudel (5 tháng 8 năm 1868 – 23 tháng 2 năm 1955),
-Mooris Maeterlinck (1862-1949),
-Pierre de Ronsard (11 /9 /1524 – 27 /12 /1585),
- Fredéric Mistral (1830-1914),
-Saint-John Perse (1887-1975)....
Đặc biệt thơ ca lãng mạn Pháp có ảnh hưởng lớn đến thơ ca lãng mạn Việt Nam, nhất là thơ mới, với sự hình thành một thế hệ nhà thơ như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…
Xin mời quý vị độc giả đọc các bài thơ hay nhất (do khuôn khổ có hạn nên mỗi tasic giả chỉ chọn một bài thơ)
Xin mời các quý vị độc giả đọc vài bài thơ
*La Fontaine có nhiều bài thơ nổi tiếng: Ve và kiến, Quạ và cáo, Sói và cừu non, Thần chết và lão tiều phu, Con cáo và giàn nho, Gà trống và cáo, Ông già và các con, Gà đẻ trứng vàng, Thỏ và rùa, Thả mồi bắt bóng, Đám ma sư tử, Hội đồng chuột...
VE VÀ KIẾN
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả
Trước thu, thề đất trời!
Xin đủ cả vốn lời
Tính Kiến ghét vay cậy
Thói ấy chẳng hề chi
Nắng ráo chú làm gì?
Kiến hỏi Ve như vậy
Ve rằng: Luôn đêm ngày
Tôi hát, thiệt gì bác!
Kiến rằng: Xưa chú hát
Nay thử múa coi đây
Bản dịch này của Nguyễn Văn Vĩnh đăng trên Đông Dương tạp chí số 40 (năm 1914)
* Louis Aragon (3 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 12 năm 1982) – nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị Pháp, thành viên của Viện hàn lâm Goncourt.
CUỘC HÒ HẸN BẤT TUYỆT
Anh viết những lời thơ ngược chiều gió thổi
Mặc cho ai xuôi gió no buồm
Gió càng to than hồng càng cháy đỏ
Lịch sử và tình anh chung một bước đường
*
Anh viết những lời thơ ngược chiều gió thổi
Mặc cho ai trong màu lúa chín vàng
Không thấy bánh tương lai, và cười. Anh chỉ biết
Nơi em qua là cửa ngõ, và trời xanh chỉ giữa mắt em
*
Mỗi chuyến tàu điện đi chở em theo một ít
Dù gió ngược trong một ngày mây phủ
Anh viết theo lòng anh, mặc kẻ điếc nghe ca
Cứ tưởng như nghe những lời gian dối
*
Tình yêu nào mà chẳng phải tình ta
Dấu chân em vạch đường anh bước
Đâu phải mặt trời ngày sáng chính em cho
Anh biết có mặt trời nơi tay em sạm nắng
Mặt trời thiếu yêu đương là cuộc sống phiêu lưu
Mặt trời thiếu yêu đương là thời gian đứt hẳn
*
Trong những kẻ chia tay luôn có em cùng anh từ biệt
Luôn có tình đôi ta trong những mắt lệ tràn
Luôn có tình đôi ta trong quãng đường lạc bước
*
Có tình đôi ta và có em khi đường bị cắt
Anh thấy em khi tàu chạy xé tim đau
Thấy em khi thà mất chiếc găng đi còn hơn dùng găng khác
Có em trong bao ý nghĩ khiến chàng trai biến sắc
Có em trong những khăn tay vẫy mãi không nguôi
Vẫn là em trên những boong tàu bâng khuâng dạo gót
*
Có em trong tiếng nghẹn ngào trong lời tình thủ thỉ
Và bên thềm chiều lặng lẽ ngõ yêu đương
Một tiếng thốt khôn ngăn, lời mơ trong giấc ngủ
Một nụ cười bất chợt, tấm rèm cửa phất bay
Giữa sân trường vọng xa quây quần tiếng trẻ
Một hai ba đàn em tập đếm thơ ngây
Chim câu gù trên mái ngói ban đêm
Tiếng than thở trong ngục tù
Ngọc châu kẻ mò đáy biển
Cao tiếng hát hay lặng lẽ tất cả vẫn là em
Bản dịch của Nguyễn Viết Lâm
*Âm nhạc Pháp:
Âm nhạc Pháp nổi tiếng với giai điệu dịu êm, nhẹ nhàng, sâu lắng, ca từ lãng mạn và giàu ý nghĩa. Dòng chảy âm nhạc Pháp qua mỗi giai đoạn đều lưu lại trong tâm hồn người nghe những tình khúc bất hủ và tinh tế, mãi ngân nga theo những thăng trầm của cuộc sống.
Người ta nói nước Pháp là những bản tình ca. có rất nhiều bài hát hay như: Tombe la neige, Car je veux J'ai raté le coche Le train va Đonna, Ensemble, Je t’aime, Jamis toujours,…
Mời quý vị nhẩm bài hát
TOMBE LA NEIGE (TUYẾT RƠI)
Nhạc và lời của Salvatore Adamo
Ngoài kia tuyết rơi đầy
em không đến bên anh chiều nay
ngoài kia tuyết rơi rơi
trong băng giá tim anh tả tơi
đâu đây đám tang u buồn
mắt ai vương lệ thẫn thờ
lũ chim trên cành ngu ngơ
khóc thương ai đời bơ vơ
Không có em vuốt ve đêm nay
môi mắt anh xanh xao hao gầy
tuyết vẫn rơi đầy trên cây
giông tố như vô tình qua đây
Tuyết vẫn rơi rơi
chiều nay sao em không đến bên anh?
tuyết rơi tuyết rơi
phủ kín hồn anh một màu tang trắng
Buồn ơi ta khóc thương thân mình
vắng em căn phòng giá lạnh
nỗi cô đơn nào không đau
nhớ thương bao giờ qua mau.
Ngoài kia tuyết rơi mau
Người không đến khiến tôi buồn rầu.
Ngoài kia tuyết rơi lạnh
Như ngăn bước chân êm người tình.
Trông ra trắng xóa (trên) cây cành
Giống khăn tang phủ lên mình
Lũ chim trên cành giơ xương
Tuyết không tha đàn chim non.
Em muốn qua thăm tôi một chiều
Nhưng tuyết rơi rơi thật nhiều
Tuyết ngăn chân người em yêu
Không tới thăm được tôi đâu.
(la la la....)
Ngoài kia tuyết rơi mau
Người không đến khiến tôi buồn rầu.
Ngoài kia tuyết rơi lạnh
Như ngăn bước chân êm người tình.
Trông ra trắng xóa (trên) cây cành
Rét căm thêm vào vắng lạnh
Thế gian như lặng câm thôi
Tuyết không bao giờ ngưng rơi.
Em muốn qua thăm tôi một chiều
Nhưng tuyết rơi rơi thật nhiều
Tuyết ngăn chân người em yêu
Không tới thăm được tôi đâu
Bùi Minh Trí ghi lại đôi chút cảm hứng của mình về văn học và thi ca Pháp:
MỘT THOÁNG VĂN HÓA PHÁP
Như giấc mơ bay trên trời nước Pháp(1)
Paris hoa lệ gọi chiêm bao
Say truyện ngụ ngôn, mê thơ ngọt ngào
Giật tung xích xiềng “Những người khốn khổ”
*
Xiết đỗi thân quen vạn vật cây cỏ
Đi vào nhẹ nhàng thơ La Fon-ten
Chứa đủ lẽ đời, thế thái nhân tình
Hư cấu muôn hình, ngẫm càng thấy thấu
*
“Đỏ và đen” nhân tình thế thái
“Ba người lính ngự lâm” mê suốt đời
Nhà thờ Notre Dame nổi tiếng mọi thời
“Thằng Gù” dân yêu bởi tâm ngay thẳng (2)
*
Những bài ca du dương ta say đắm
Nghe hát “Tuyết rơi” thổn thức bồi hồi (3)
Ôi buồn sao đi thơ thẩn mình tôi
Giữa xa lạ, mênh mông chiều nước Pháp.
_______________
(1) Hồi tôi đi thực tập ở Pháp (1983-1984)
(2) Nhân vật trong chuyện Nhà thờ Đức Bà của Victor Hugo
(3) Bài hát nổi tiếng “Tombe la neige”
Người gửi / điện thoại