VỀ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
VŨ NHO
PHÓNG VIÊN VÕ HÀ ĐÀI VOV CÙNG VŨ NHO
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn lớn của dân tộc trong dòng văn học yêu nước chống thự dân Pháp xâm lược thời kì nửa cuối thế kỉ 19.
Ông là “ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ văn nghệ của dân tộc” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá.
Trước đấy, Nguyễn Đình Chiểu cũng được các nhà thơ đương thời và sau ông ít nhiều đánh giá cao. Miên Thẩm, thường gọi là Tùng Thiện Vương, có bài thơ “ Độc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn” đã viết:
Quốc ngữ ông cũng hay như ông Tả Khưu Minh mắt mù làm sử,
Lời văn ông cũng giống bài ca “quỷ hùng” của ông Khuất Nguyên điếu những người tử trận.
Nhân dân cầm sào làm cờ, chặt gỗ làm gươm, ngàn xưa vẫn anh dũng,
Mà đã thành con vượn kêu, con hạc oán bấy lâu nay!
Một người thư sinh mà đến đỗi dùng bút đánh giặc,
Báo ân vua chỉ ngần ấy, cũng đáng thương lắm thay!
Bà Mai Am, thường gọi là Lại Đức công chúa, em ruột nhà thơ Miên Thẩm cũng có một bài thơ ghi xúc cảm sau khi đọc bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu nhan đề “ Độc điếu nghĩa dân tử trận văn”, trong đó có 2 câu kết:
Quốc ngữ nhất thiên, truyền bất hủ
Tuyệt thăng Quáng Hán yểm khô hài
Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi
Còn hơn xây mộ cất khô hài.
Phải nói rằng sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu rất đồ sộ. Ngoài truyện Lục Vân Tiên, một truyện thơ nôm nổi tiếng, ông còn có “ Dương Từ Hà mậu:, “ Ngư Tiều y thật vấn đáp”. Phần thơ văn yêu nước cũng nổi trội với nhiều bài thơ nôm, trong đó nổi bật nhất là bài “ Chạy Tây” ( còn gọi là Chạy giặc). Nhiều bài thơ điếu các lãnh tụ nghĩa quân. Nhiều bài văn tế lãnh tụ và những nghĩa sĩ hi sinh trong chống Pháp. Đặc sắc nhất là “ Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Đây là bài văn khắc họa hình ảnh những nghĩa sĩ, những người nông dân yêu nước là những anh hùng cứu nước. Mặc dù họ chỉ quen việc nhà nông “ việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Còn việc quân sự “ Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Tuy thế họ đã đứng lên, chiến đấu với một tinh thần quả cảm, phi thường:
Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không
Xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho Mã tà, Ma ní hồn kinh
Bọn hè trước, lũ có sau, trối kệ tàu thiếc, mtauf đồng súng nổ
( Chúng tôi nghĩ rằng, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết trong bài Đất nước những câu thơ:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Có ảnh hưởng và bóng dáng của Văn Tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc).
Không chỉ bài văn tế có vị trí đặc biệt trong văn học sử nước ta, bài “ Chạy Giặc” ( Chạy Tây) cũng là bài thơ xuất sắc ghi lại cảnh nước mất, nhà tan khi Pháp xâm lược miền Nam:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dát bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đông nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này
Về tác phẩm Lục Vân Tiên, tôi cho rằng các nhà nghiên cứu vẫn chưa có đánh giá đầy đủ về tác phẩm này.
Trước hết, đây là một truyện nôm mà Nguyễn Đình Chiểu tự viết ra mà nhân vật Lục Vân Tiên có những yếu tố giống với cuộc đời riêng của tác giả ( Đi thi, mẹ mất, khóc mẹ nên bị mù).
Dù tác giả viết rằng “ Trước đèn xem truyện Tây Minh”, nhưng không nhà nghiên cứu nào tìm được “Truyện Tây Minh” là truyện nào, của ai viết. Đây là kiểu mở đầu để khẳng định là có truyện như thế, tác giả chỉ là người thuật lại, viết lại bằng thơ Nôm. Cũng tựa như Nguyễn Du viết “ Cảo thơm lần giở trước đèn/ Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”. Nguyễn Du dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đời nhà Minh. Còn Nguyễn Đình Chiểu thì “viết như vậy mà không phải vậy”.
Trong truyện, có nhiều câu thơ mộc mạc nhưng có ý nghĩa khái quát sâu sắc. Chẳng hạn như:
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương
Ghét và thương là hai mặt đối lập trong tình cảm. Người giàu lòng thương cái đẹp, cái tốt cũng là người hay ghét cái xấu, cái dở.
Có những câu câu như là châm ngôn về sự trò chuyện, gặp gỡ của con người mọi thời đại:
Ai ai cũng ở trong trời
Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi
Lời đã cạn thì không nói nữa, không thêm nữa. Nếu không , thì sẽ phạm vào điều kiêng kị là “ Nói dài, nói dai, nói dại”!
Về giá trị của tác phẩm “ Lục Vân Tiên”, nhà thơ Xuân Diệu rất thích thú với việc Nguyễn Đình Chiểu đã đưa tiếng “ừ” dân dã, giản dị vào thơ:
Vân Tiên ngó lại rằng ừ
Làm thơ cho kịp chừ chừ chớ lâu.
Ở đây, tôi xin phép bình luận 2 chi tiết mà tôi cho rằng nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã không chính xác khi đánh giá về tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Cần nói thêm rằng, hai chi tiết này tôi đã viết thành một bài báo gửi về Tạp chí Văn Học khi cụ Hoài Thanh còn sống. Nhưng lúc ấy, người ta không biết anh cán bộ nhép Vũ Nho là ai mà dám cãi, dám chê cụ Hoài Thanh “ngang trời uy linh”. Bởi vậy kết quả mà tôi nhận được là :” Chúng tôi cám ơn sự cộng tác của đồng chí. Bài không dùng được!”.
( Cũng xin nói thật rằng tôi không thích “Chân dung nhà văn” của nhà thơ Xuân Sách nói chung và viết về bác Hoài Thanh nói riêng. Bởi vì bác Xuân Sách chỉ chăm chăm nhằm vào chỗ tối, chỗ hạn chế “người ta thường tình” nên chân dung nhà văn thường méo mó. Chỉ riêng việc bác Hoài Thanh dám viết về “Nhật kí trong tù” của cụ Hồ rằng “ Nhật kí trong tù gồm hàng trăm bài thơ trong đó có mấy chục bài hay” cũng đủ thấy bác Hoài Thanh dũng cảm! Tôi đọc mà kính cẩn ngả mũ!).
Bây giờ quay trở lại việc bình luận của chàng trẻ tuổi trong bài báo không được dùng.
Thứ nhất là nhà phê bình Hoài Thanh so sánh cuộc gặp của 2 cặp trai tài gái sắc của hai tác phẩm là Truyện Kiều và Lục Vân Tiên. Kiều và Kim Trọng thì say đắm, nồng nàn. “ Chập chờn cơn tỉnh cơn mê”. Còn anh chàng họ Lục thì “ Khoan khoan ngồi đó chớ ra/ Nàng là phận gái ta là phận trai”. Khi Nguyệt Nga muốn rước về nhà đền ơn thì Vân Tiên từ chối. Khi muốn tặng thơ thì Vân Tiên cũng chẳng mấy mặn mà:
Vân Tiên ngó lại rằng ừ
Là thơ cho kịp chừ chừ chớ lâu.
Tôi cho rằng cụ Hoài Thanh đã khập khiễng trong so sánh. Phải nói là rất khập khiễng, nên thiếu công bằng.
Kiều và Kim Trọng là trai thanh gái lịch đi Hội là để gặp gỡ, hò hẹn. Bởi vậy mà hai người Quốc sắc, Thiên tài gặp gỡ là mê nhau ngay, quyến luyến nhau ngay, không muốn rời “ Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn”.
Còn Vân Tiên và Nguyệt Nga gặp nhau tình cờ, đột xuất trong vụ Vân Tiên đánh cướp.
Điều quan trọng nhất mà nhà phê bình quên, là khi đó, Vân Tiên đã có đính ước với Võ Thể Loan.
Nếu Vân Tiên gặp Nguyệt Nga mà cũng si mê nàng ngay, quyến luyến với nàng thì như Kim Trọng với Kiều thì sau này, chàng bị Võ Thể Loan bội ước, người ta sẽ không mấy thương cảm. Nguyễn Đình Chiểu do đó đã để Vân Tiên có vẻ không mặn mà, không vồ vập Nguyệt Nga là có lí do riêng.
Bởi thế mà so sánh 2 cặp nhân vật này và có ý chê Nguyễn Đình Chiểu là không thỏa đáng!
Chuyện thứ hai là nhà phê bình Hoài Thanh so sánh 2 đoạn tự tử trên sông của Thúy Kiều và Nguyệt Nga. Tôi không còn nhớ chính xác lời văn của cụ Hoài Thanh. Nhưng nhớ rõ cụ coi Thúy Kiều trước khi nhảy xuống sông Tiền Đường thì “một mình cay đắng trăm đường”, rồi viết thư tuyệt mệnh, nghĩ ngợi gần xa rồi mới:
Trông vời con nước mênh mông
Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang
Còn Nguyệt Nga thì đơn giả quá:
Một mình bức tượng vai mang
Nhằm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay
Cụ Hoài Thanh còn viết dòng bình luận “nhảy như nhảy ở sân vận động”! “Việc gì mà phải vội vàng nhảy ngay? Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự tử mà vô tâm như người ta nhảy trên sân vận động. Nhịp điệu câu thơ cũng gấp gáp, láu táu đến buồn cười! Con người ấy còn cần gì phải nhảy xuống sông. Nó đã chết từ khi chưa nhảy. Nó chưa hề sống bao giờ “ (Toàn tập Hoài Thanh , Tập hai, trang 47- 48 ).
Thật là sai lầm nghiêm trọng. Nguyệt Nga quyết chết để giữ thủy chung với Vân Tiên, thì hành động “ vội vàng nhảy ngay” là một hành động dứt khoát, đáng ca ngợi chứ sao lại chế diễu?
Đại ý là như vậy! Điều này cho thấy dù là nhà phê bình văn học thuộc hàng đầu , có người còn nâng lên thành thiên tài, nhưng nếu có thành kiến thì việc phân tích không có sức thuyết phục. Thậm chí sai lầm!
Người gửi / điện thoại