SỨC MẠNH CỦA VẾT THƯƠNG – THƠ MỌC LÊN TỪ NỖI ĐAU
(Ấn tượng đọc Niềm tự trọng của những đóa hoa, tập thơ của Ánh Tuyết,
NXB Hội Nhà văn, 2021)
BÙI VIỆT THẮNG
Mặt trời mọc từ phương Bắc hay là thơ mọc lên từ nỗi đau
Một lần, cách nay đã lâu, trong cuộc tao ngộ văn chương với các bạn
văn cùng trà tuổi, nhà văn Bảo Ninh vốn kiệm lời ở giữa đám đông, hôm đó
nói một câu ngắn gọn, chắc nịch và thâm thúy: “Làm cái anh viết văn phải có
thân phận mới mong câu chữ có được sức nặng”. Hôm nay, qua một người
mới quen - ông Nguyễn Ngọc Phan, làm việc ở báo Thời báo Văn học nghệ
thuật - tôi có trong tay tập thơ mới của Ánh tuyết Niềm tự trọng của những
đóa hoa. Tôi vẫn tự nhận mình không sành khi đọc thơ (bằng văn xuôi),
nhưng lần này có gì đó lôi cuốn tôi từ tập thơ mới của nữ thi sĩ quê hương
năm tấn (Thái Bình). Đọc xong, trước lúc đặt bút viết bài phê bình, tôi lật giở
sách Nhà văn Việt Nam hiện đại (in lần thứ V, NXB Hội Nhà văn, 2020,
tr.22), tìm tác giả, đọc thấy những dòng Suy nghĩ về nhề văn: “Cuộc đời tôi
nhiều bầm dập đau buồn, tôi luôn ở tâm bão trên cấp 13. May thay tôi có
những trang viết để tôi vơi bớt những nỗi niềm”. Tôi nghĩ, nhà thơ không hề
nói quá, không cố “nống” lên cái tâm sự có thực - nỗi buồn - từng chung thân
với đời mình trong nhiều thời gian và không gian khác nhau. Bài thơ Mời
chồng về ăn tết, theo tôi, tiêu biểu cho lối viết “thơ mọc lên từ nỗi đau” trong
thơ Ánh Tuyết. Trước lúc vào thơ, tác giả viết hẳn 115 chữ, như một dạng đề
từ, để làm phát sáng những câu thơ (20 dòng lục bát, quy ra 140 chữ) về sau
được “viết trong tâm trạng rưng rưng nỗi niềm”. Có thể nói , đây là một bài
thơ có “tứ” lạ (còn mới hay không lại phải bàn tiếp). Người chồng trong thơ
rất “lạ”, bởi: “Sống, giao thừa chẳng ở nhà/ Rượu nồng, hoa thắm xót xa...đợi
người.../Tết này lạnh lẽo một nơi/ Rượu nồng, hoa thắm...đau lời rượu
hoa.../Cháu con thương nhớ mong chờ/Người về ấm cửa ấm nhà....Người
ơi!/Mùa xuân đang đến kia rồi/Có nghe thao thiết những lời...có nghe!”. Nỗi
đau thấm từng câu chữ thơ. Tất nhiên. Nhưng có những bài thơ nỗi đau toát
lên ngay từ nhan đề, như Tháng ba buồn, Suông, Cỗ người cõi âm, Nỗi buồn,
Khóc, Ân hận, Buông, Đám cưới hai liệt sỹ, Nỗi đau Rào Trăng, Ăn mày vỡ
bát, Kiếp hề, Nhạt tình, Đau tình (13 bài/tổng số 59 bài trong tập). Trong bài
thơ ngắn (4 câu) Mặt trời mọc từ phương Bắc, tôi đọc thấy nỗi buồn giăng
mắc nơi nơi: “Anh đừng thương nỗi buồn của em/Em đang khốn khổ buồn
2
thương kẻ khác/Mặt trời trong em mọc từ phương Bắc/Trái tim đang yêu, em
bất lực với nó rồi”. Nhưng đậm đặc nhất phải nhắc tới bài Nỗi buồn: “Ai
không có được nỗi buồn/Chỉ là cái xác không hồn mà thôi/Buồn, vui, cay
đắng ở đời/ Bầu nên một chữ CON NGƯỜI viết hoa”. Thiết nghĩ, sẽ có người
đọc bài thơ này cho rằng nhà thơ đã “báo động giả” (!?); còn nhà thơ sẽ trả lời
(tôi đồ rằng): “Các vị tin thì tin, không tin thì thôi!”.
Ai đó nói không phải không thấu tình, đạt lý rằng: trong cuộc đời và
trong thơ có những nỗi buồn đẹp. Tôi vừa dược tặng tác phẩm mới Sức mạnh
của vết thương (phê bình - tiểu luận) của nhà văn Hoàng Thụy Anh (công tác
ở Tạp chí Nhật Lệ, Hội LHVHNT Quảng Bình). Chính cấu tứ của tác phẩm
mới này của bạn văn đã gợi ý cho tôi viết phê bình tập thơ Niềm tự trọng của
những đóa hoa của Ánh Tuyết. Người ta nói, mọi sự so sánh đều khập khiễng.
Nhưng trong trường hợp này, đặt cạnh nhau hai tác phẩm, dẫu thuộc các thể
loại văn học khác nhau, nhưng xét đến cùng chúng có sự gần gũi đáng quan
tâm.
Niềm tự trọng của những đóa hoa – mạch thơ của một người nữ sống kiêu
hãnh
Niềm tự trọng của những đóa hoa là nhan đề (dẫu hơi dài) một bài thơ
được dùng đặt tên chung cho cả tập thơ thứ chín của Ánh Tuyết. Nhà văn
Trầm Hương đã viết tự tin: “Tôi kiêu hãnh vì được là đàn bà!” (Phái đẹp,
cuộc đời & cây bút, NXB Hội Nhà văn, 2015, quyển 1, tr. 298). Trong bài thơ
Niềm tự trọng của những đóa hoa, Ánh Tuyết viết về những can qua, bể dâu
đời mình (dẫu cho có lúc nhạt duyên, bẽ bàng, sớm nắng chiều mưa, lắt lay
trời chiều,...) thì cũng đừng bao giờ nản lòng hay nhụt chí, trái lại: “Xinh tươi
kiêu hãnh lên đi/ Là hoa, em biết làm gì...Hoa ơi!”. Phụ nữ là phái đẹp, phái
mạnh (chứ không phải phái yếu). Phụ nữ phải năng ý thức về vẻ đẹp tạo hóa
riêng ban tặng cho giới mình. Ngày xưa, cổ nhân vẫn chỉ giáo “hàm răng mái
tóc là vóc con người”, nhất là với nữ giới. Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng viết
một tác phẩm nổi tiếng Tóc chị Hoài (tùy bút,1943), sau này ở ngoài đời
người phụ nữ nào có mái tóc đẹp thì các đấng mày râu khi gặp, cùng nhau
xuýt xoa: “Kia kìa, chị Hoài!”. Phụ nữ có quyền kiêu hãnh về sắc đẹp của
mình. Trước hết là mái tóc đẹp (đấy là nói chuyện ngày xưa, còn ngày nay thì
“thương lắm tóc dài ơi!”). Bài thơ Tóc mây, dẫu làm theo thể lục bát, ai đó
nghĩ nó không hợp với đối tượng, nhưng hơi thơ rất hiện đại: “Tóc mây đổ
xuống bờ vai/ Để cho ai nhớ thương hoài tóc mây/ Năm năm...tháng
3
tháng...ngày ngày.../ Tóc mây một suối vẫn dày như xưa/ Thèm làn gió nhẹ
hững hờ/ Được ngồi vuốt nhẹ đôi bờ vai thon/ Tay nâng niu những sợi mềm/
Tóc mây... mà cả một niềm vấn vương.../ Em đừng chải tóc trước gương/ Để
ai bối rối chạnh thương ...tóc mềm...”. Tứ thơ “kiêu hãnh được làm đnà bà”
trong thơ Ánh Tuyết còn đọng lại trong một bài thơ hay khác như Kính trọng
sự cúi đầu: “Mẹ già lưng còng đầu cúi rạp/ Dâng trọn đời cho con cháu, sức
còn đâu?/ Cây lúa nuôi người chờ bông chín/ Bông trĩu nặng, cây tàn, đầu cúi
ngẩng làm sao! (...)/ Kiêu hãnh thay sự cúi mình/ Kính nể thay phút quang
vinh cúi đầu”. Đây là kiểu thơ “suy tưởng”, tuy nhiên chạm tới sự hài hòa và
cố kết giữa chất đời và triết luận. Nhưng viết thơ kiểu này, chẳng khác chi
nghệ sĩ biểu diễn xiếc trên dây, mạo hiểm nhiều khi nghẹt thở. Tôi thực sự hồi
hộp khi đọc. Và thở phào nhẹ nhõm khi nhà thơ, cũng như nghệ sĩ xiếc, tiếp
đất an toàn, như cách viết khiêm nhường và nhiều ngụ ý sau: “Cánh tàn
hương vẫn còn lưu/ Còn bâng khuâng biết bao nhiêu nồng nàn/ Con người
trên khắp thế gian/ Học sen, học cả cách tàn của sen” (Sen tàn).
Cổ nhân nói: “Đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm” là chí lý. Với
người phụ nữ truyền thống thì các chuẩn mực đức hạnh thường là “tề gia nội
trợ”, “công dung ngôn hạnh”, “vượng phu ích tử”, “nữ công gia chánh”,... Gia
tài của người phụ nữ không gì khác ngoài gia đình – tổ ấm hạnh phúc, “hang
ổ cuối cùng”. Trong bài thơ Gia tài, tôi tâm đắc khi đọc: “Gia tài lớn nhất của
em/Trĩu vai một gánh giang sơn giữa đời/Là cha mẹ, là các con/Là anh, là
tiếng cười giòn mâm cơm/Em giàu chẳng thể giàu hơn/Trời xanh mây trắng
của em cả mà/Niềm vui chung của chúng ta/Nỗi buồn em...chút gọi là của
riêng”. Ở đây, tôi thấy, khiêm nhường và kiêu hãnh dường như không tách
bạch rõ ràng như dưới thanh thiên bạch nhật. Người phu nữ biết kiêu hãnh
(không phải là kiêu căng), cũng chính là người khiêm nhu hơn ai hết. Nói
niềm kiêu hãnh của người nữ trong thơ Ánh Tuyết là nói đến phẩm chất tối
quan trọng “tôi chính là tôi”. Nhưng ở đây người nữ dịu dàng hơn khi tự xưng
Là em (một bài thơ hay, theo tôi): “Em vừa là cơn nắng/ Cơn mưa cũng là em/
Vừa bỏng rát cơn hè/Đã lại che bóng mát/ Vừa rủ rê cơn khát/ Hạ nhiệt chính
là em”.
Điệu nói trong thơ – ánh phản điệu cảm, điệu nghĩ của nhà thơ
Nhà thơ Ánh Tuyết, theo tôi, là người có tính “nhị nguyên” cả trong
cách sống và cách viết, hiểu là “kim cổ giao duyên”. Không nệ cổ, đã đành;
song cũng không tân thời, cũng bởi lứa tuổi, nghề nghiệp, thổ nhưỡng văn hóa
4
quy định (theo cách tiếp cận “phương pháp tiểu sử tác giả”). Vì thế điệu cảm,
điệu nghĩ và điệu nói trong thơ Ánh Tuyết cũng thường “chia đôi” khá rõ
ràng. Tôi gọi đó là điệu nói dân gian (thời cổ) và điệu nói @ (thời kim). Sẽ có
người cho rằng tôi áp đặt công thức, điều vốn rất kỵ trong nghệ thuật. Nhưng
quý vị cứ thử một lần cùng tôi làm một cuộc phiêu lưu chữ vào thơ Ánh
Tuyết, xem sao (!?).
Điệu nói dân gian được sử dụng đắc lực khi viết về những gì thuộc về
truyền thống (Sen và bèo, Hương thầm, Mời chồng về ăn tết, Gửi chàng Chiêu
Hổ, Ta còn con chữ gửi trên cuộc đời, Cuối năm tắm nước mùi già, Xanh,...).
Điệu nói dân gian tạo nên cái/sự nền nã trong thơ Ánh Tuyết (tôi gọi là phần
“tĩnh”).
Điệu nói thời @ phù hợp với thời cuộc khi văn hóa – văn học đại chúng
lên ngôi, người đọc là “khách hàng/ thượng đế”, thích những gì nhanh/ hiệu
quả tức thời (Chùa thời @, Đeo kính cho trâu, Đùa chút, Đùa dai, Thị Màu
đừng bỏ chiếu chèo, Nỗi đau hóa đá, Ngày cá tháng Tư, Tự do, Ngẫu hứng
Valentinne, Thói đời, Trâu bò thời @, Chuyện của thời đánh giặc Cô vít,...).
Sẽ có người tỉ mỉ mà nói rằng, điệu nói thời @ trong thơ Ánh Tuyết đều thuộc
nhóm “thơ thời sự”. Nhưng nên nhớ lại câu nói nổi tiếng của đại thi hào Đức
(XIX) W. Gớt: “Thơ nào cũng là thơ thời sự”. Điệu nói thời @ tạo nên cái/sự
“động” trong thơ Ánh Tuyết.
Vĩ thanh
Vậy tập thơ thứ chín Niềm tự trọng của những đóa hoa của Ánh
Tuyết, liệu có dư ba trong lòng người yêu thơ?! Một tập thơ hay, đó chắc chắn
là một điều khó đạt tới, không riêng gì với Ánh Tuyết. Nhưng chọn được dăm
bài thơ hay trong tập thơ này, thì điều đó không khó. Viết đến đây, tôi nhớ tới
ý của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, sinh thời nói, đại ý: một tác giả viết được
độ 50 truyện ngắn, nếu đạt tỷ lệ 1/10 “cái” hay, đã là thành công. Ông tự nhận
mình là người đã đạt được điều đó. Vậy nên chọn 1/10 của 59 bài thơ trong
tập Niềm tự trọng của những đóa hoa của nhà thơ Ánh Tuyết, thiết nghĩ, là
công việc không quá khó khăn của quý vị độc giả yêu thơ./.
Hà Nội, tháng Phụ nữ, 2022
B.V.T
Người gửi / điện thoại