Họ và tên khai sinh : Nguyễn Thị Thu Nguyệt
Ngày sinh : 02 tháng 8 năm 1963
Quê quán : Thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Dân tộc : Kinh
Tôn giáo : Đạo Phật
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Tác phẩm thơ đã xuất bản
Điều thật (1992)
Ngộ (1997)
Cõi lạ ( 2000)
Hoa cỏ bên đường (2002)
Theo mùa (2006)
DỊU DÀNG TRONG TRẺO NHƯ LÀ… TRỜI SINH
Vũ Nho
Ngay khi vừa mới xuất hiện trên thi đàn, Thu Nguyệt đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng bạn đọc. Ấy là sự tự tin, mới mẻ của cô gái ngày nay so với cô Kiều của cụ Nguyễn Du:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Câu thơ xưa bỗng bình thường
Khi hôm nay kẻ lên đường là em
Một nửa vầng trăng- tập Điều thật
Ấy là sự tinh tế và đằm thắm khi diễn tả cảnh chia li độc đáo và đặc sắc:
Mặt trời nằm trong ngực
Mặt trời đừng bước ra
Để thời gian ở mức
Ngày mai em đi xa
Ngày mai em đi xa- tập Điều thật
Đến nay, Thu Nguyệt càng viết càng chắc tay, càng viết càng hay. Chị đã nhận giải thưởng của Văn học nghệ thuật Đồng Tháp, giải thưởng Văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là Thu Nguyệt đã trở thành một cây bút trong làng thơ nữ mang đậm bản sắc đồng bằng sông Cửu Long và bản sắc riêng của mình : dịu dàng trong trẻo như là… trời sinh.
Một hồn thơ dịu dàng trong trẻo
Nét nổi bật trong thơ Thu Nguyệt là sự dịu dàng, trong trẻo. Tuổi thơ trong trẻo. Lớn lên làm thi sĩ, làm vợ, làm mẹ, vẫn sự trong trẻo đó : Ta trong trẻo đến khóc cười cũng trong ( Tết xưa- tập Cõi lạ). Khóc trong trẻo mà cười càng trong trẻo. Vui trong trẻo mà buồn cũng trong trẻo. Vui thì : Nghêu ngao hát với ruộng đồng/Không không, sắc sắc, không không…tằng tằng…! (Vòm tre – tập Ngộ). Hoặc nữa buồn lẫn với vui thì : Núi ơi là núi xa rồi / Cái ngày leo núi ta cười trong mưa ( Với núi- tập Cõi lạ). Buồn thì cũng buồn trong trẻo, đến mức như là không có buồn:
Giọt buồn nhễu hạt tong tong
Vậy mà cứ tưởng là không…
Thiệt tình
Nhà mình- tập Cõi lạ
Trong mấy câu thơ đề từ cho tập Cõi lạ có một câu quan trọng :
Chuông không ai gióng mà buồn cứ ngân
Người đọc không thể không nhớ đến câu thơ Hồ Xuân Hương cũng về quả chuông lòng: Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om. Tiếng buồn ngân và tiếng sầu om của quả chuông không gióng và chẳng đánh của hai nữ sĩ, hai thân phận ở hai thời khác nhau quả thật khác nhau. Xuân Hương nghiêng về đau, còn Thu Nguyệt thì nghiêng về trong trẻo.
Tâm hồn dịu dàng, trong trẻo đó trăn trở về quê hương, về nỗi người, nỗi đời, nỗi mình một cách hồn nhiên, trầm tĩnh, nhẹ nhàng mà thấm thía.
Một tình quê chân chất dạt dào
Quê hương Đồng Tháp của Thu Nguyệt cũng giống như mọi miền quê, có vườn cây, có dòng mương, có cầu tre lắt lẻo, có dòng sông, có lục bình, bông điên điển… Điều khác chính là ở chỗ hình ảnh quê hương luôn xanh rười rượi trong thơ. Nó là nơi lưu giữ tuổi thơ, nơi tiễn người ra đi, nơi đón người trở lại. Đó là cội nguồn thẳm sâu và vững chắc của thơ; là sợi dây neo cho cánh diều thơ Thu Nguyệt lộng gió bốn phương để bay cao. Chị luôn luôn trăn trở về quê:
Tôi trở về nhớ mãi nước mương vơi
Những mắt cá lìm kìm đầy cơn khát
Vịt có chết chìm đâu? ( Tôi buồn tôi hát)
Sao cá lìm kìm cắn mãi…
trái tim tôi
Hát về con mương nhỏ- tập Điều thật
Những hình ảnh quê hương thành kỉ niệm, thành tài sản, thành một nỗi niềm. Nhà thơ thấp thỏm với con nước vơi đầy, với con người chân đất tay chai, với người cha một năm một lần duy nhất : Chiều tết ba mươi chải đầu mang guốc ( Cội nguồn- tập Điều thật); với những đứa em vất vả sớm hôm bùn bết tóc, …ngủ giấc nhà nghèo/ Lẫn trong mơ tiếng nhái kêu nhọc nhằn ( Quỳnh đêm – tập Ngộ); với những đứa cháu …gầy bé lắm/Lá me, trái sắn…tiệc nhà vua/ Cào cào dế nhủi đều đem nướng/Bóng khách đằng xa đã chạy ùa ( Nhớ nhà- tập Ngộ). Quê hương là vòm tre, là dòng sông bình lặng chảy, là ngôi nhà thân thương :
Mái cũ rêu dày xanh mướt
Sân buồn đàn kiến hồi hương
Nửa mảnh gáo dừa đọng nước
Soi gương chú nhện sau vườn
Quê buồn- tập Ngộ
Quê hương còn là kỉ niệm tuổi thơ đằm trong lời ru với nỗi ước mơ thiệt thà mà khi xa quê về quê bất chợt tái tê:
“Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ”
Thiệt thà sao nỗi ước mơ
Chỉ là rau ốc bên bờ ruộng quê
Trưa nay thành thị ta về
Nghe lời ru bỗng tái tê cả lòng
Lời ru – tập Cõi lạ
Vì tình quê dạt dào như thế nên có khi chỉ bất ngờ một tiếng chim cũng nhói lòng, ứa lệ :
Bất ngờ tiếng chim rơi cuối phố
Điếng lòng trong trẻo tiếng quê xa
Thành thị ta ngồi nghe nước mắt
Nhớ nhà - tập Ngộ
Và khi nhớ quê, nhớ cồn cào nước kinh mương thì chỉ còn cách:
Buồn! Đem thau nước ra soi bóng mình
Nhưng chỉ cảm thấy nỗi vô tình nhạt nhẽo:
Cũng bập bềnh, cũng lung linh
Nhạt nhèo một mảnh vô tình như không
Nhớ nước- tập Cõi lạ
Quê hương không chỉ là nỗi nhớ, niềm mong, sự băn khoăn, niềm tri ân. Quê hương còn hiện ra máu thịt trong những từ ngữ miệt vườn. Thu Nguyệt đã chọn lọc và đưa vào những phương ngữ Nam Bộ tạo thành một giọng điệu riêng, một chất quê riêng khó lẫn. Những thiệt là, thiệt tình, nhẹ hều, nhẹ bâng, nhẹ hững, rần rần, lương sương, lén khóc, mỏng xíu, mần sao… Những từ ngữ đã nghe quen, thấy quen trên sách vở mà vẫn thấy mới mẻ và sáng tạo trong câu thơ Thu Nguyệt:
Lá nè về ở với ta
Vui buồn lật lại lật qua mấy hồi
Thương lá- tập Cõi lạ
Chồng ơi vợ nói nghe nè
Đan tay nhau để cùng nghe khứ hồi
Tay tình- tập Cõi lạ
Những từ ngữ rong ranh, lủ khủ, thầm thầm làm cho thơ như có nhãn tự, cảnh cú, đọc thật thích thú:
Gió lùa lá rụng rong ranh
Ta buồn chân giẫm loanh quanh dấu mình
Thương lá- tập Cõi lạ
Thiên hạ nôn nao đón chào mới cũ
Mình bộn bề lủ khủ những buồn vui
Sẽ đến rồi qua- tập Cõi lạ
Núi ngồi ngắm biển ngàn năm
Sóng ầm ầm sóng, núi thầm thầm xanh
Núi ở biển- tập Cõi lạ
Một nỗi buồn mang mang cõi người
Dễ nhận ra thơ Thu Nguyệt có một giọng buồn. Nỗi buồn mang mang không giấu diếm. Không coi buồn là gia tài hay đặc sản, cứ tự nhiên mà buồn vậy thôi. Bởi vì cuộc đời quả thật cũng lắm nỗi buồn hơn là niềm vui. Điều đó lại càng đúng với một tâm hồn nhạy cảm và đa cảm. Cũng có lúc buồn không có nguyên cớ, chỉ là Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn như Xuân Diệu thuở nào. Nhưng buồn trong thơ Thu Nguyệt phần nhiều là nỗi buồn cụ thể. Có thể buồn vì chợt nhớ bóng cha già lẻ nguyên khi đón tết. Có thể buồn vì “Nao lòng chợt nhớ cánh hoa xưa” ( Thời gian nơi xa- tập Điều thật). Có thể buồn vì ngày mồng tám tháng ba : “Không anh em tự mua hoa tặng mình” ( Thơ ngày 8-3 – tập Điều thật). Có thể buồn vì “Con sóng vô tình cay nghiệt/ Xô hoài nỗi nhớ trong nhau” ( Mình biết- tập Điều thật). Có thể buồn vì “Điều bâng quơ cũng có khi đốt lòng” ( Nghe hát lí qua cầu trên sông- tập Điều thật). Có thể buồn vì bất chợt soi gương : “ Thời gian người tính tháng ngày/ Đời buồn vui tính trên vài nếp nhăn” ( Soi gương- tập Cõi lạ). Nỗi buồn ấy có khi vì những nguyên cớ rộng hơn, lớn hơn. Đó là buồn vì “Kiếp phù du, giấc phù hoa” ( Ru đá- tập Cõi lạ). Buồn vì “Ngỡ ngàng như một giấc mơ/ Chút mong manh có bất ngờ thành không ( Miền tình- tập Cõi lạ). Đó là nỗi buồn thế sự “ Nụ cười lạ hoắc bon chen đầy đường” ( Quen- tập Theo mùa).
Buồn phiền đấy, nhưng Thu Nguyệt đã ngộ được nhiều điều. Quy luật cuộc đời là vĩnh cửu, tất yếu : Tháng ngày nhẹ hững đi qua/ Những điều gần đó rồi xa…thật thường ( Sẽ đến rồi qua- tâp Cõi lạ). Thời gian là một vòng luân hồi : Ngày tháng bây giờ, ngày tháng xa xưa/ Ngày tháng mai sau…luân hồi vậy vậy/ Mọi vật hồn nhiên mất rồi có đấy ( Sinh nhật ta- tập Cõi lạ). Bên kia nỗi buồn là niềm vui, hay vui và buồn là một vòng nối tiếp, hết buồn thì sẽ là vui: Buồn vui như một cái vòng/ Điểm đầu tiên điểm cuối cùng gặp nhau ( Hồn nhiên- tập Theo mùa). Có lẽ vì thế mà buồn trong thơ Thu Nguyệt là một nỗi buồn trong trẻo, nỗi buồn cần thiết để con người sống thánh thiện hơn.
Tự cười mình để làm vui
Điều độc đáo ở Thu Nguyệt chính là thơ chị có một nụ cười hài hước, trào lộng. Chính nụ cười này đã làm cho những nỗi buồn trở nên nhẹ nhõm, không quá nặng nề. Có thể gặp nụ cười ấy ở nhiều cung bậc khác nhau, nhiều tình huống khác nhau. Trước hết là cái cười tự trào hồn nhiên và hóm hỉnh:
Rằng nay có nhỏ Nguyệt khùng
Từ trong thành phố ra rừng ngồi chơi
…
Rất mộng mơ, bỗng hiên ngang
Mặt mày có nét đàng hoàng công dân
Tấm ảnh- tập Cõi lạ
Khi tự bạch về mình chị luôn nhấn mạnh gốc gác nhà quê, quê mùa tóc dính đầy rơm khô, mặt mũi lấm lem tóc cháy hoe vàng, cũng không quên kèm lời tự giễu:
Tôi là con bé nhà quê
Đôi khi nhấp chút bùa mê thị thành
Chút văn minh, chút lanh chanh
Chút trăn trở…
thế là thành nhà thơ
Chọn lựa – tập Ngộ
Trình bày lí do vì sao mình làm thơ, chị cho rằng vì ước mơ của thời thơ ấu, và cái chính là chẳng thể làm nghề gì khác :
Lớn lên vào đời xuôi ngược loay hoay
Không thể làm thầy, không kham làm thợ
Vụng về làm mẹ, ngu ngơ làm vợ
Tự bạch – tập Ngộ
Chị tự giễu sự nhạy cảm và nỗi vui buồn mộng mơ của mình như là sự thừa thãi trong hành trang:
Khóc cười khẽ chạm là tuôn
Hành trang thừa thãi vui buồn mộng mơ
Ắp đầy lộn xộn vần thơ
Lạy mình- tập Cõi lạ
Phát hiện về sự độc đáo của bông So đũa, cũng là hoa nhưng chỉ để nấu lẩu mà không để cắm bình, chị cũng tự giễu mình:
Hoa vô tư nở bên đời
Ta vô tình lại học đòi xót xa
So đũa hoa – tập Cõi lạ
Con người hay cười, dịu dàng, hiền lành ấy biếm hoạ mình:
Chơn tình lúc nhớ lúc quên
Biểu đồ bản tính lúc hiền lúc hung
Thân –sơ…đảo lộn lung tung
Nụ cười tiếp thị đi cùng khắp nơi
Đi cùng đồ giả - tập Theo mùa
Nhiều bài thơ khác cũng vẫn là cái giọng tự trào khơi khơi, nhẹ nhàng như Phù phiếm, Cỏ dại ( tập Ngộ); Sóng rơi, Nhân chi sơ, Soi gương, Lá khô, Sự mình…( tập Cõi lạ) Cạn, Con kiến lơ ngơ, Ta nghe nhọc lòng, Phận ta, Thiền giả ( tập Theo mùa)…
Tự cười mình, dám đem mình ra để cười diễu là một biểu hiện của sự tự tin. Nhưng hơn thế, là biểu hiện của người hóm hỉnh, hài hước, sống vui. Có lẽ không phải là quá đáng hay bốc đồng khi cho rằng Thu Nguyệt là trường hợp nhà thơ nữ tự cười mình, tự giễu mình nhiều nhất trong lịch sử thơ ca dân tộc.
Thu Nguyệt đã in năm tập thơ. Chị có cả một địa chỉ trên mạng về tác phẩm của mình. Những điều viết trên đây chỉ là những điều cơ bản cảm nhận được từ một gia tài thơ giàu có của tác giả. Có thể coi bài viết là một kỉ niệm với Thu Nguyệt tôi biết từ ngày chị đi học trường viết văn Nguyễn Du : Một chút tình pha lê/Như giọt sương bên ánh mặt trời rực rỡ ( Bước nhỏ- tập Cõi lạ).
Hà Nội, 26/8/2008
THU NGUYỆT VÀ KHOẢNH KHẮC
TỪ LÚC ẤY
TỪ LÚC ẤY
Gởi T.H
Em ngồi hoá đá thành thơ
Trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu
Em ngồi hoá đá thành chiều
Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa
Em ngồi hoá đá thành mưa
Trả anh cái phút anh đưa qua cầu...
Xa nào anh có hay đâu
Đã từ lúc ấy bắt đầu hoá em...
1988
Lời bình
Bài thơ vẻn vẹn tám câu mà đã có đến bốn lần biến hoá và ba lần trả nợ. Mới hay nợ tình - một thứ nợ đâu có dễ dàng trang trải như các loại nợ khác của đời thường. Vậy nên cô gái mới phải hoá đá nhiều lần đến thế.
Em ngồi hoá đá...
Em ngồi lặng im, em ngồi như đá, em thành ra đá. Như bao lứa đôi chờ đợi nhớ thương nhau. Chỉ có bấy nhiêu thôi thì cũng chẳng có gì đặc biệt. Vì đời này đã có không phải một hòn vọng phu, không phải chỉ một hòn chồng, hòn vợ. Hơn nữa những tượng đài chung thuỷ ấy kích thước khổng lồ so với bức tượng cô gái hoá thành. Nhưng cô gái không chỉ hoá đá. " Em ngồi hoá đá " ấy là thể phách. Còn tinh anh của em lại thành thơ, một sản phẩm tinh thần mà bạn thơ Vũ Xuân Hương định nghĩa : " Thơ - cái vắt tim ra - là vật báu cuối cùng " ( đề tặng ). Hoá đá để thành thơ, để có thể " trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu ". Em hoá đá hiện tại để trở về cùng quá khứ. " Em ngồi hoá đá thành chiều ". Thời gian là sản phẩm của tạo hoá. Nhưng em đâu có muốn thành tạo hoá, sánh cùng tạo hoá. Thành chiều chính là để trở lại một chiều xưa, ngày anh tặng " nụ hôn liều". Có lẽ tất cả ngày tháng " anh chờ lúc yêu " đáng nhớ thì nụ hôn liều, cái hôn táo bạo bồng bột của tình yêu không kìm nén được, là điều đáng nhớ nhất. Và cùng với nó là cái" phút anh đưa qua cầu". Cây cầu con lắt lẻo dòng kinh Nam Bộ hay cây cầu giải yếm trong ca dao, cây cầu hò hẹn " áo bay, nhẫn rơi " trong dân ca quan họ bao giờ cũng đầy những kỷ niệm mà đôi lứa chẳng thể nào quên.
Nhưng ba lần " trả anh " như thế, ta chẳng hiểu cô gái có ý định gì. Đọc kỹ hai câu thơ kết mới vỡ lẽ rằng đó không phải là sự "hoàn lại", càng không phải là một sự " thanh toán ". Mà trả là đền bù, là bồi đắp cho những gì chưa đủ với anh ( và cũng là cho cả chính mình ).
Xa nào anh có hay đâu
Đã từ lúc ấy bắt đầu hoá em...
Lần biến hoá thứ tư này khác ba lần đầu. Đá hoá thành em. Đặc sắc nhất của bài thơ chình là ở đó. Hoá đá một chiều là chất thơ trong chuyện cổ dân gian. Còn sự biến hoá qua lại hai chiều em hoá đá rồi đá hoá em là trường hợp riêng trong thơ Thu Nguyệt. Hình như việc "trả" anh dồn dập thế, mà không phải là để cắt dứt, để giã từ hay đoạn tuyệt là bởi cô gái đang ân hận thì phải. Hẳn là ngày chưa xa, khi ở bên nhau em cũng đã có lúc "hoá đá" trước anh. Mà chỉ có đá không thôi. Bây giờ xa rồi, khoảng cách đó đủ để cho em nhìn lại mình và đem cho em tâm trạng :
"Có gì lạ quá đi thôi
Khi gần thì mất... xa xôi lại còn "
(Nguyễn Duy)
Vì vậy mà em tiếc nuối, muốn đền muốn trả cho anh...
Nhưng càng đền bù, càng bồi đắp, càng trả... càng thấy mình mắc nợ. Có hoá đá đến vĩnh cửu cũng vậy thôi. Cho nên đá ngày ấy và đá của bây giờ lại hoá em. Cũng là em, nhưng sau bao lần biến hoá đã thành một con người khác. Bây giờ em dịu dàng, em rộng lượng,em vị tha, em mềm mại thịt da với trái tim đôn hậu. Sỏ dĩ như vậy vì ngày xưa chỉ có đá lạnh lùng. Còn bây giờ đằng sau đá là thơ, là chiều, là mưa, là lòng em đắm trong kỷ niệm xưa.
Khi em " hoá đá thành mưa " thì chắc là cũng không chỉ có mưa của ngày ấy, mưa của thiên nhiên, mà hình như có mưa của bây giờ - những giọt lệ đang rơi mưa ở trong lòng người viết. Lời thơ giản dị sẽ còn gợi nhiều liên tưởng giàu thi vị, đôi khi vượt ra ngoài ý của tác giả Thu Nguyệt. Nhưng có sao đâu. Mỗi người đọc đều có một hoàn cảnh và một cái mốc "từ lúc ấy" của riêng mình !
Hà Nội mùa xuân 1989
Người gửi / điện thoại