bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN - NGHỆ SĨ ĐIỆN ẢNH CẦM SƠN ĐÃ LÀM VIDEO CLIP RẤT SINH ĐỘNG!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN  NHÀ BÁO ĐẶNG THỦY ĐÃ ĐẶT HÀNG VÀ DÙNG BÀI VIẾT NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

Cám ơn nhà văn Nguyễn Đông Nhật!A DI ĐÀ PHẬT! AN LÀNH CHO CÁC BẠN ĐỌC TRANG NÀY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÔNG NHẬT!CHÚC ÀNH DỒI DÀO SỨC KHỎE VÀ CẢM HỨNG SÁNG TẠO!

 

VŨ NHO 085 589 0003

HOAN HÔ NHÀ THƠ ÁI NHÂN!

 

VŨ NHO 085 589 0003

THÔNG TIN THÚ VỊ!CÁM ƠN TÁC GIẢ HÀ ANH!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 16
Trong ngày: 73
Trong tuần: 1550
Lượt truy cập: 651372

HÀNH TRÌNH SANG CAMBODIA

Cầm Sơn
 
HÀNH TRÌNH SANG CAMBODIA TÌM CHA
                                                 Bút ký
 
    Cha tôi tham gia Việt Minh khi đang làm ký ga xe lửa Gia Lâm năm 1942 rồi gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông đã từng trải qua các chức vụ: Huyện đội trưởng, Chủ tịch UB hành chính kháng chiến huyện, Phó bí thư huyện ủy huyện Văn Lâm, Hưng Yên. Không rõ vì lý do gì, ông theo chuyến tàu mộ phu cao su vào miền Nam năm 1953. Khi ấy tôi mới được 8 tháng tuổi. Lúc mới vào ông làm giáo học. Do ông nói tiếng Pháp thành thạo nên sau đó làm thư ký cho một  chủ đồn điền cao su người Pháp ở Xa Kát, Hớn Quản tỉnh Bình Long. Ông vẫn thường gửi bưu thiếp về cho mẹ tôi nhưng sau năm 1958 thì không còn liên lạc được nữa. Giải phóng năm 1975 cũng mất tích luôn. Mãi đến năm 1998 mẹ tôi nhân chuyến vào miền Nam dự đám cưới, bà lần theo địa chỉ bưu thiếp đi tìm cha tôi. Việc bà tìm ra bà  vợ thứ ba của cha và mấy đứa em tôi hiện đang ở Lộc Ninh, Bình Phước là cả một câu chuyện đầy kịch tính và cảm động. Nhưng khi tìm được thì cha tôi đã chết do sốt rét từ hồi tháng 10 năm 1972 tại Cam Pu Chia. Bà Ba là người theo đạo công giáo nên không đưa mộ cha tôi về. Chính vì vậy mới có cuộc hành trình này của tôi. Hành trình này là lần thứ tư trong chuỗi hành trình tìm cha tôi. Hai lần trước do các em tôi theo yêu cầu của mẹ tôi sang Cam Pu Chia khảo sát, lần thứ ba do mẹ tôi chỉ đạo cùng bà Ba và các em tôi đồng thời có mời nhà sư Phước Ấn  đi trợ giúp, song đều không đạt được kết quả.  Tôi nhận quyết định nghỉ hưu ngày 01 tháng 7 thì ngày 02 tháng 7 vợ chồng tôi lên đường sang Campost tìm cha, đấy là việc làm đầu tiên khi thời gian hoàn toàn là sở hữu của mình mà tôi nghĩ tới.  
 
    07072010235
     Vợ chồng  tôi xuất phát từ thị trấn Thanh Sơn ngày 02 tháng 7 năm 2010, đi theo hướng Việt Trì để đón nhà sư Phước Ấn ở chùa Bồ Đề. Hòa thượng Thích Phước Ấn tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Long, là cháu ruột liệt sỹ anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Thầy vào chùa từ khi trên 10 tuổi, thuở còn sinh viên là biệt động thành Sài Gòn, bí thư Thành Đoàn. Hiện nay thầy là phó chủ tịch hội Phật Giáo tỉnh Đồng Nai. Thầy bảo theo quan niệm dòng dõi thì dòng tộc nhà thầy đến đời thầy là cụt bởi chú Trỗi khi hy sinh chưa có con, còn thầy, vì nhiệm vụ mà phải vào nhà chùa thành sư từ nhỏ. Đoàn dừng ăn cơm trưa ở Phủ Lý và chạy tiếp đến Thanh Hóa thì rẽ lên đường Hồ Chí Minh. Tôi chạy xe thay chú Thành được khoảng 50 Km khi đi qua thị trấn huyện Cẩm Thủy thì bị cảnh sát giao thông dừng xe kiểm tra. Thật rủi là tôi không đem theo bằng lái nên nói đi nói lại mãi mới được nộp phạt rồi cho xe đi. Sau khi bị phạt, tôi lại thấy rất vui vì nghĩ rằng cái rủi này là điềm báo hiệu cho những cái may tiếp theo. Đêm ấy chúng tôi nghỉ lại thị trấn Tân Kỳ (Hà Tĩnh). Ở đây, chúng tôi có chụp bức hình kỷ niệm ở cột mốc cây số không đường mòn Hồ Chí Minh, điểm đầu của con đường máu lửa huyền thoại và oanh liệt một thời.
    6 giờ sáng ngày hôm sau chúng tôi lại đi tiếp, nghỉ ăn cơm trưa tại khu du lịch Phong Nha Kẻ Bàng. Quán ăn chật cứng khách du lịch, bến sông Son nhộn nhịp thuyền đò đưa đón khách du lịch thăm quan. Khoảng 2 giờ chiều chúng tôi vào viếng mộ các liệt sỹ Vĩnh Phú ở nghĩa trang Trường Sơn. Lần trước, khi đi cùng đoàn văn nghệ sỹ vào Huế dự hội thảo VHNT năm vùng kinh đô xưa và nay đoàn cũng đã vào viếng và tôi tình cờ tìm thấy mộ ông bạn từ thời còn học phổ thông nên lần này tôi có ý đi qua để viếng ông bạn, mặc dù thầy Phước Ấn nói là sẽ bị xa hơn khoảng 80 cây số so với đường rẽ sang Khe Sanh. Tôi mua một bó hoa Huệ và hương vào nghĩa trang khu Vĩnh Phú, sau khi thắp hương ở đài tưởng niệm chung, tôi mang bó hoa Huệ vào thắp hương mộ ông bạn. Thắp hương xong tôi nói với bạn tôi:" Tĩnh ơi! Hãy yên nghỉ, mày không bao giờ chết trong lòng bạn bè, hôm nay đi qua đây thắp hương cho mày rồi tao lại phải đi ngay. Tao đi tìm mộ bố tao ở tận bên nước bạn Cam Pu Chia, lần này là lần thứ tư. Cầu mong Anh linh mày giúp tao chóng hoàn thành nhiệm vụ. xin chào nhé, tao phải đi đây!".
   Xe chúng tôi chạy qua các khu vực có đồng bào Vân Kiều, họ ở trong những ngôi nhà vừa nhỏ vừa thấp, thậm chí còn chẳng có vách che, trong nhà rỗng tuyếch hầu như không có thứ gì, thế nhưng lại có nhiều xe máy và chảo thu tín hiệu Tivi. Con sông Ba Lòng chảy dọc đường đi, mùa khô, dòng sông chỉ là một dải nước nhỏ đỏ ngầu chảy ngoằn ngòeo giữa lô nhô nhăn nhở đá. Nó đỏ đục là do dân đi đãi vàng, có bãi tới cả hàng trăm người đãi. Sự huỷ hoại môi trường đến khủng khiếp, những bãi đất bị đào bới nham nhở trông như bãi chiến trường mới sau một trận ném bom. Tối, chúng tôi nghỉ  ở thị trấn A Lưới, nơi xảy ra những trận chiến ác liệt  đã đi vào lịch sử của thời chiến tranh chống Mỹ.
   Sáng hôm sau tiếp tục lên đường. Đường Hồ Chí Minh xuyên qua đại ngàn Trường Sơn thâm u, núi ở đây vách dựng đứng. Để mở con đường này quả thật là tốn kém, liên tục nhiều nơi đất lở đá xô, xe đi lại rất ít nhưng gặp  nhiều các đội sửa đường. Có lẽ vùng A Lưới là đỉnh cao nhất của Trường Sơn. Xe chúng tôi từ Đông Trường Sơn xuyên sang Tây Trường Sơn. Núi non hiểm trở trùng điệp và hùng vĩ, có đi trên đỉnh Trường Sơn mới thấy  sự hy sinh gian khổ của bộ đội đường dây 559, mới cảm nhận được tầm vóc lớn lao của cuộc chiến tranh vệ quốc thống nhất  non sông. Buổi trưa dừng ăn cơm ở thị trấn Khâm Đức. Ở đây, chúng tôi được thưởng thức món rau Lủi luộc. Loại rau này ăn rất mát, có vị hơi chua và mùi thơm của trái xoài non, và cũng chỉ có vùng này mới có, rau được lấy từ rừng, vẫn là một loài hoang dại, chắc chắn nó đã góp phần cho những bữa ăn của bộ đội, thanh niên xung phong thời kỳ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Tôi hỏi chủ quán sao không đưa về trồng trong vườn nhà, chủ quán bảo thì cứ hái cái có sẵn trong rừng cũng đủ phục vụ khách rồi. Tôi cứ băn khoăn mãi, giá mà thứ rau này được chú ý phát triển nuôi trồng để trở thành một loại hàng hoá thì hay biết mấy. Buổi chiều, xe chúng tôi qua đèo Lò So để tới Kon Tum. Mãi đến 7 giờ 30 phút chúng tôi mới đến Buôn Hồ, Vợ chồng nhà Lý Thu săn đón thầy Phước Ấn. Chả là thầy đã từng tìm được  cho họ mộ ba người thân, Lý người Hà Tĩnh, đang là công nhân ngành xây dựng bỏ việc  vào đây làm ăn từ năm 1981, hiện vợ chồng họ có một cây xăng và hơn 2 Ha rẫy trồng cà phê. Ăn cơm xong thì đã 9 giờ. Khách sạn ở thị trấn Buôn Hồ  giá dịch vụ một trăm ngàn đồng một  giường, phòng to rộng, tiện nghi không kém gì khách sạn 3 sao.
   Sáng ngày mùng 5 tháng 7, Lý đến khách sạn đón thầy Phước Ấn, đoàn chúng tôi trả phòng đi ăn sáng. Ăn xong quay lại nhà Lý đón thầy thì thầy do mải nói chuyện với gia đình nên chưa kịp ăn gì. Dù vậy xe vẫn phải đi. Ở Đắk Min có chú Cảnh là cán bộ ở công ty tôi trước kia gọi điện liên tục để được đón chúng tôi vào chơi nhà. Là cán bộ hàm đội trưởng nhưng Cảnh bảo: “ Cứ là doanh nghiệp Quốc doanh mãi, em có phấn đấu được lên bằng hàm bác thì cũng vẫn cứ nghèo, em còn trẻ, em muốn xây dựng cuộc sống theo ý của em”. Thế là Cảnh xin nghỉ một lần mang vợ con vào Nam lập nghiệp.  Xe chạy qua cầu 14  là sang đất tỉnh Đăk Nông, chạy thêm khoảng 40 cây số nữa thì gặp Cảnh đứng đợi ở ven đường. Cảnh có một chiếc xe FoEket tự lái dẫn xe chúng tôi vào nhà, nhà Cảnh cách đường 14 khoảng 2 km. Cảnh có trên 15 ha cao su và hồ tiêu, vợ Cảnh còn buôn bán ngoài thị trấn nên gia cảnh rất khá, mỗi một ha vườn ở đây có giá từ 300 triệu  đến 1 tỷ đồng.
  Mặc dù mới có 9giờ 30 nhưng đoàn chúng tôi vẫn phải ăn cơm với bố con Cảnh. Vợ Cảnh đưa con ra Bắc gọi về trách bác Sơn không báo trước để lui chuyến đi lại ở nhà tiếp bác. Trên nóc tủ còn thấy giấy khen của hội chữ thập đỏ xã Đăk N,DRót khen vợ Cảnh, thế là rất mừng cho vợ chồng Cảnh, làm ăn khá giả, quan hệ xã hội tốt, xây dựng được một nếp sống có văn hóa, bền vững.
 Đoàn tiếp tục lên đường, từ đây vào đường bằng phẳng, hai bên trồng toàn cao su. Đến dốc Cây Chanh thuộc Bình Phước chúng tôi tạm nghỉ, quán nước dưới tán cao su và được bố trí rất nhiều võng cho khách nằm nghỉ tạm. Chúng tôi mua 3 quả mít Tố lai chỉ mất 15 ngàn đồng , bổ ra bóc cái lõi là múi bám theo, ăn như mít mật nhưng rất thơm, quả là một lòai đặc sản quý, Không biết đã có người nào nghĩ đến chuyện đầu tư  trồng loại mít này với quy mô lớn để phát triển thành một loại hàng hoá có thương hiệu riêng có của vùng đất mà không nơi nào cạnh tranh được?!
Xe chạy trên đường 13 to rộng mênh mông, đến thị trấn phố huyện Bình Long thì rẽ sang đường đi Tây Ninh, từ đây đến Kà Tum,  Cao su hai bên đương khép tán vào nhau như một mái vòm che mát con đường thẳng tắp như kẻ chỉ. Đoàn chúng tôi đến Kà Tum lúc 5 giờ 30. ăn cơm tối tại nhà chị Hoàng Thị Tơ, sau đó chạy 15 cây số ra thị trấn phố huyện Tân Biên tìm nhà nghỉ. Nhà nghỉ ở đây 200 ngàn đồng một phòng có một giường đôi và người nào cũng phải nộp giấy tờ tùy thân. Chủ nhà nghỉ giải thích là do đây là huyện có biên giới nên quy định ngặt nghèo. OK! Phòng ốc cũng khá tinh tươm nhưng hơi hẹp.
   Sáng  ngày 6 tháng 7, đoàn chúng tôi lên đường sang Cam pu Chia. Địa danh cần đến của chúng tôi là phum (ấp) Thơ Mây, thường cắt  (xã ) Cà Chay grốc ( huyện) Mi Mốt tỉnh Công Pông Chàm. thuê 8 chiếc xe ôm chở người và dụng cụ, những người chạy  xe ôm này cũng là người làm nhiệm vụ đào tìm. mỗi một xe như thế phải trả 350 ngàn đồng mỗi ngày. Trạm biên phòng 819 không cho 6 người chúng tôi là người từ tỉnh khác qua. Nguyên tắc ở đây là chỉ cho người ở hai xã giáp biên qua lại. Người sỹ quan trực ban gọi điện cho chỉ huy xin ý kiến mãi không được, đến khi gặp được  thì sếp bảo phải có giấy bảo lãnh được chính quyền xã sở tại xác nhận. Thế là lại phải quay về xã để xin thủ tục. Chờ đợi mãi rồi cũng được qua. Qua được hai chốt của hai nước xem đồng hồ thấy kim chỉ 9 giờ 35 phút. Đi được một đoạn lại bị hai bộ đội biên phòng Campuchia chặn xét, họ  không đồng ý việc viết chung cả đoàn người trên một giấy biên lai thu tiền mà ở ngoài trạm cửa khẩu đã làm. Nhưng rồi thì họ cũng cho đi.
05072010203 Nơi chúng tôi đến là một  vạt đồi cao su. Chủ vườn, một ông già cỡ ngoài sáu mươi tuổi nhưng khỏe mạnh, sởi lởi và vui vẻ  khi  chúng tôi đề nghị cho  tìm mộ trên vạt rừng của ông. Nhờ những người Miên sở tại, chúng tôi tìm được cái giếng hình vuông bằng bê tông- vật duy nhất làm mốc chuẩn. Từ đây sẽ xác định các vị trí khác theo trí nhớ của bà Ba và các em tôi, nhà sư Phước Ấn chỉ vị trí cần tìm. Một cháu trong đoàn gọi là Đen để được quả trứng trên đầu đũa, sau đó là nhà sư rồi đến cô em tôi cũng để được trứng trên đầu đũa. Tôi loay hoay mãi mà vẫn không để được. Đào bới hết buổi sáng chả tìm được gì, cho thấy việc cắm đũa đặt trứng chỉ là trạng thái cân bằng không bền, đặt khéo thì được chứ không phải hiện tượng tâm linh gì cả.
  Buổi chiều, nhà sư  khấn tìm đứa em gái tôi. Ông gọi cho tôi yêu cầu điều người xuống phía chân đồi đào vì ông nói đã nhìn thấy em gái tôi đứng đó. Đào đến 3 giờ chiều vẫn chẳng thấy gì. Trời phía Tây Nam sấm chớp đì đùng, tôi cho mọi người nghỉ ra về vì sợ rằng trời mưa xuống thì sẽ không ra được khỏi rừng cao su vì đường  trơn trượt, xe máy không thể đi được. Về tới nhà chị Tơ còn sớm. Nhà sư cùng chị Tơ ra nhà chùa gặp sư trụ trì chùa người Miên. Nhà sư Miên bầy cho sư Phước Ấn một số thủ tục theo phong tục của người Miên, chúng tôi gửi nhà sư Miên một ít tiền nhờ nhà sư đến tối  làm lễ  giúp bằng tiếng Miên. Chúng tôi lại quay ra thị trấn phố huyện Tân Biên để nghỉ. Kết thúc ngày đầu sang đất Miên tìm mộ cha. Phải nói rằng tôi thật sự thất vọng. Trong cái rừng cao su mênh mông bao la như thế, thời gian đã xoá hết mọi dấu tích, hỏi rằng cha mình nằm ở chỗ nào?   
    Ngày thứ hai, khi đến trạm biên phòng Việt Nam thì lại do một sỹ quan khác trực. Vinh vào trạm tìm người sỹ quan hôm qua, sau khi ăn cơm, anh ra trao đổi với người sỹ quan trực ban nhưng anh này vẫn bắt Vinh chạy về  lấy ý kiến của lãnh đạo đồn. Chờ khoảng một giờ đồng hồ thì rồi cũng được qua. Phía trạm Campuchia họ không khó khăn gì, chỉ cần nộp tiền lệ phí theo quy định là qua dễ dàng. Đoàn lại vào hiện trường tiếp tục tìm kiếm. Riêng xe chở tôi và chị Tơ thì đi vào ấp đến nhà ông chủ tịch phum. Chủ tịch phum Thơ Mây là một người trung niên khoảng 40 tuổi tên là Lon. Sau khi nghe chị Tơ trao đổi, Lon rút điện thoại gọi cho tà (ông) Thơ Lây là chủ vườn cao su nhờ ông giúp đỡ. Tôi biếu chủ tịch Lon gói quà, ông vui vẻ nhận và thái độ rất thiện cảm.
    Hôm nay, Thầy Phước Ấn yêu cầu dùng thước dây và la bàn đo khoảng cách cẩn thận. Vị trí xác định ngày hôm nay cách vị trí ngày hôm qua có tới 100 mét. Sau khi làm lễ, chúng tôi bắt đầu cho đào. Buổi sáng, chúng tôi chỉ đào hai vị trí rồi nghỉ. Mọi người xuống  bìa  rừng  ăn cơm.  Thầy Phước Ấn  bảo  ông  không ăn, cứ  kệ  ông  ngồi  Thiền một  mình  trên  đỉnh  đồi  để ông tĩnh tâm.  Khoảng một  giờ  sau  thầy  xuống   núi  và  nói  đã  tìm  ra  mộ.  Vị  trí  thầy  chỉ  là  một  khoảng  đất  nằm  chính  giữa  hai hàng  cao  su, khoảng  đất  này  hơi  trũng  xuống  như  hình một cái huyệt. Linh cảm  giác quan thứ sáu của con người đã mách bảo tôi đúng đấy là mộ cha mình rồi.
  12h35p chúng tôi bắt đầu đào. 12h57p, cháu Đen phát hiện  đất chuyển sang mầu xám.13h07p, cái thuốn của ông Bảy Thương kéo lên được một mẩu mầu đen dài khoảng 2cm. Bóp thấy chẩy nước và khi xé ra thì xác định đấy là một mẩu tre.  Lại nói về cây thuốn của  ông Bảy -  Thiếu tá Huỳnh Thương, chủ tịch hội Cựu chiến binh xã Tân Đông. Ông có cây thuốn bằng thanh sắt 12 li được đánh hai cái ngạnh ở đầu, hai cái ngạnh này có thể kéo từ dưới đất lên những vật mà người tìm kiếm cần nghiên cứu. Với cái thuốn này, ông đã cùng bạn bè tìm được 477 hài cốt của đồng đội. 
    Do những người trong đoàn đã có nhiều kinh nghiệm trong việc  tìm hài cốt nên bắt đầu từ đây, việc tìm kiếm được tiến hành rất thận trọng, đất được hớt lên từng lớp rất mỏng để kiểm tra. 13h15p, chúng tôi phát hiện ra một mảnh sắt rỉ. Mảnh hài cốt đầu tiên chúng tôi tìm được là một cái răng hàm, cái răng này lại nằm ở hướng phía dưới, như vậy thì mộ sẽ là đặt đầu xuống phía chân đồi, điều này có vẻ hơi ngược. Nhưng theo cô em tôi nói thì đúng là đặt đầu xuống phía dưới vì khi chôn cha tôi gia đình hướng đầu quay về phía núi Bà Đen, đấy là Tổ quốc Việt Nam. Tôi ngước mắt nhìn sang phía Đông Nam,  thấy ngọn núi Bà Đen sừng sững, uy nghiêm hiện trên nền trời xanh mờ phía xa xa.
 Sau đó chúng tôi nhặt được rất nhiều những mảnh xương đã vón cục tròn tròn. Các cháu nhỏ người Miên cũng  nhiệt tình tìm nhặt giúp chúng tôi, chúng nhặt được một vốc to so với bàn tay của chúng những mẩu xương vụn. Di vật chúng tôi thu lượm được ngoài hài cốt ra còn có: những mảnh tre đen, những mảnh sắt gỉ, những mẩu ni nông vụn. Đến đây, chúng tôi đã khẳng định chính xác là mộ cha tôi. Khi cha tôi mất, Người được khâm liệm bằng một mảnh vải mưa, quấn bên ngoài là hai mảnh tôn có mấy thanh tre đặt dọc theo thi hài bó lại. Vị trí theo lời bà mẹ kế tôi nói tính từ cái giếng bê tông vuông đi về phía Bắc 20 mét, quay sang phía Đông chừng 400 mét là nhà ở. Khi ông chết, được khiêng chéo về phía Tây Tây Bắc khoảng 70 mét, chôn cạnh mấy bụi tre non. Theo lời cô em tôi thì nhà ở phía bên trên một rặng tre, và rặng tre thì đến nay vẫn còn. Như vậy vị trí ngôi nhà cha tôi ở là ranh giới giữa vườn cao su và vườn điều. Chỉ có một yếu tố khác là nó chỉ cách cái giếng 300 mét chứ không phải 400 mét như bà mẹ kế tôi nói. Điều đó cũng dễ hiểu, vì chạy loạn chiến tranh, ở đó có 7 tháng, khoảng cách chỉ là áng khoảng làm sao chính xác được. Người đầu tiên tôi gọi điện thông báo là mẹ tôi, tôi vốn cứng rắn nhưng khi sóng bắt được liên lạc thì tôi không nói được mà chỉ khóc, và đầu dây bên kia mẹ tôi cũng khóc, có lẽ không cần nói mẹ tôi cũng đã đã biết được tin mừng. Có thể phải đến 2 phút sau tôi mới nói được những lời cần nói. Tôi không dám gọi cho người thân nữa vì sợ rằng lại khóc.  Chị Tơ và chị Hoa là người phiên dịch nói thạo tiếng Miên giới thiệu một người đàn bà Miên và bảo chính bà này đã dắt tay thầy Phước Ấn chỉ ngội mộ. Lý do là mỗi lần đi làm qua đây bà đều thấy một cái cây rung rinh, bà nói rằng nó không phải là  cái gốc cây chết mà là một cái cọc đánh dấu mộ chôn người. Chúng tôi nhổ thử thì thấy đúng là một cái cọc được chôn xuống chứ không phải cái gốc cây  và còn phát hiện thêm lúc đào bới cũng có mấy cái cọc nằm dưói đất nữa. Thì ra chủ rẫy trước khi trồng cao su có chôn 4 cái cọc xung quanh mộ để đánh dấu, nay còn một cái vẫn còn cao đến hơn một mét. Đến lúc tìm ra mới thấy thật đơn giản. Và theo bà Em Khòn ( người đàn bà chỉ mộ ) thì phía trên đỉnh đồi này chỉ có một ngôi mộ, còn những ngôi mộ khác đều được chôn ở phía dưới chân đồi. Điều đó càng khẳng định ngôi mộ chúng tôi tìm được chính xác là mộ cha tôi. 
   Sau khi khâm liệm cha tôi xong, thầy Phước Ấn cho đào thêm một hố tìm cô em tôi nhưng không thấy gì,  Trời đã về chiều, chúng tôi lại phải quay về Việt Nam. Bác Bảy Thương bảo đưa cha tôi về nhà bác vì nhà bác vẫn thường để hài cốt đồng đội, không kiêng kỵ gì. Nhưng tôi thấy áy náy và quyết định đưa cha tôi về chùa thầy Phước Ấn ở Đồng Nai. Cô Chang em tôi  tỏ ý không vừa lòng và  trách tôi là chỉ lo tìm cha không quan tâm gì đến chị cô. Tôi không có thời gian giải thích, mặc cô em vùng vằng, tôi cùng thầy Phước Ấn lên xe  chạy thẳng về Đồng Nai. Gửi cha tôi vào chùa xong chúng tôi quay ngay lại Kà Tum, sau khi qua cầu Sài Gòn thì chúng tôi đi lạc loanh quanh mất một đoạn và đến 2 giờ sáng thì đến Kà Tum, vào nhà chị Tơ ngủ tạm. Sáng ngày 8 tháng 7 chúng tôi lại lên đường sang Cam Pu Chia tìm cô em gái, lúc này Chang mới hiểu và vui vẻ lên đường. Chị Hoa là người có vườn chuối ngày xưa nơi chôn em gái tôi đã khẳng định vị trí trùng khớp với thầy Phước Ấn. Nhưng có một người Miên nói rằng anh ta đã từng thuốn củ mài kéo lên được cả vải ni lon và xương người dịch vào phía trong khoảng 5 mét. Buổi sáng, chúng tôi đào được 5 hố rồi nghỉ ăn cơm. Hai cô em tôi là Chang và Giang thì hoang mang chỉ địa điểm lung tung lúc chỗ này, lúc chỗ kia do khi ấy các cô còn nhỏ vả lại thời gian đã quá lâu nên trí nhớ mông lung không rõ ràng. Buổi chiều chúng tôi lại tiếp tục đào. Thầy Phước Ấn gọi điện sang vẫn khẳng định là mộ em tôi chỉ ở quanh gốc cây mít. Thầy yêu cầu đào một hố liền với cái hố đào hôm qua nhưng lùi vào phía trong, vẫn không thấy gì. Thầy lại gọi sang bảo chờ thầy ít phút để thầy tịnh tâm coi lại. Sau khoảng 10 phút thầy gọi sang bảo đào thêm một hố liền với hố vừa đào nhưng dịch lên phía trên. Thầy bảo đào xong hố ấy là về được đấy. Đó là lần đào thứ mười trong ngày. Mấy tay trung niên trong đoàn tán rằng: Thầy chỉ được cái nói đúng, đúng là đào thêm  cái hố này nữa thì chúng tôi cũng bắt buộc phải về vì đã hơn 3 giờ chiều, 5 giờ phải qua biên giới về Việt Nam. Không ai tin là dưới có mộ vì lớp đất trên mặt rất cứng. Thầy Phước Ấn gọi sang cũng nói là đất cứng nhưng cứ đào đi, chắc chắn là chỉ đào thêm lần này nữa là sẽ về được. Đúng y như rằng, đến độ sâu khoảng 60 phân thì gặp lớp đất đổi màu đen, theo kinh nghiệm của ông Bảy và các thợ đào thì chính xác đây là hài cốt. Do đã 38 năm lại khi chết cô em tôi mới có 14 tuổi nên xương cốt không còn, chỉ còn lại lớp đất màu đen này thôi. Từ trước đến nay tôi vẫn nghi ngờ và không mấy tin vào những câu chuyện kể về các nhà ngoại cảm, tôi cho rằng người đời cứ thêu dệt ra cho nó li kỳ vậy thôi. Qua diễn biến của hành trình tìm mộ cha tôi lần này, thực sự tôi tin rằng có một sức mạnh tâm linh chỉ dẫn và khả năng ngoại cảm của con người là có thật. Thầy Phước Ấn là một trong những người có khả năng ấy. 
  Ngay tối ngày mồng 8 tháng 7, chúng tôi rời Kà Tum đưa hài cốt cô Hà-em gái tôi về Lộc Ninh. Cô Chang và cô Giang đi xe máy bị lạc đến tận thị xã Tây Ninh mới phát hiện ra, thế là mất không một quãng đường chừng 60 Km nên đến tận 22h   mới về đến nhà. Đêm đó, anh em chúng tôi mặc dù rất mệt nhưng do hưng phấn tinh thần nên chạm chén liên tục.img_5341
 Ngày mùng 9 tháng 7, xe chúng tôi đi trước, đến Xa Kát rẽ vào thăm nhà bà Ba Bách. Chồng Bà Ba Bách tên là Trần Xuân Phùng, cùng làm việc với cha tôi ở Xa Kát trước đây. Ông cũng là người từ Hải Dương vào, ngoài Hải Dương cũng đã có vợ con. Người con trai lớn của ông ngoài miền Bắc tên là Trần Anh Quế, từng đảm nhận chức Bí thư huyện ủy huyện Cẩm Giàng, nghỉ hưu năm 2006. Bà Ba Bách và các con bà vô cùng vui mừng  đón tiếp chúng tôi, bà hồ hởi và coi tôi như con cái trong nhà, bà kể chuyện về Ký Phong (cha tôi), về hoạt động của chồng bà, về chạy tránh gianh giới giữa hai làn đạn năm 1972 sang Campost, bà nói  nhiều và rất say sưa, xem ra trước đây cha tôi cũng là người được  nhiều   người trong đồn điền cao su Xa Kát yêu mến. Tôi nhìn lên tường nhà, thấy treo rất nhiều huân chương của ông Phùng. Ông Phùng vốn dĩ cũng là Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương được cử từ ngoài miền Bắc vào lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng trong giới công nhân cao su
  Tôi thuê một chiếc xe ô tô 16 chỗ ngồi đưa bà mẹ kế và đoàn các anh em con cháu từ Lộc Ninh (Bình Phước) xuống  Đồng Nai để thắp hương tiễn biệt cha tôi về ngoài miền Bắc. Thầy Phước Ấn lại đi tìm mộ liệt sỹ ở Đồng Tháp nên nhờ một nhà sư đệ tử từ Sài Gòn lên đọc kinh làm lễ cầu siêu cho cha tôi. Tham gia buổi lễ còn có ni sư Huệ Thiện là người cùng ở chùa với thầy Phước Ấn. Chùa thầy Phước Ấn có tên là chùa Gò Đá, chùa được làm trên một cái gò đá bên cạnh một cái hồ nên gọi là Chùa Gò Đá. Chùa chỉ có hai nhà sư là sư Phước Ấn và ni sư Huệ Thiện. Thỉnh thoảng chùa lại nuôi thêm các đệ tử rồi cho đi học để thành nhà sư chính thống. Sư Huệ Thiện vốn dĩ xuất thân từ nghề sư phạm, cô giáo dạy văn cấp 3, hiện nay sư Huệ Thiện là biên tập viên một tờ báo của hội Phật Giáo. Ni sư Huệ thiện là một người  nhanh nhẹn, vui vẻ, hay cười, rất có cảm tình với chúng tôi.
Bà mẹ kế của tôi và các con cháu vốn theo đạo công giáo nhưng cũng vẫn cùng ngồi chịu nghe đọc kinh cầu siêu cho cha tôi tại chùa. Buổi tối chúng tôi về nghỉ tại nhà bà chị ruột tôi. Từ hôm đưa cha tôi về chùa, bà chị tôi thường xuyên có mặt ở chùa. Bà chị tôi vốn dĩ cũng là một đệ tử chăm chút việc chùa chiền, thường ăn chay vào các ngày sóc, vọng. Nhà chị tôi ở Thủ Đức, trong khuôn viên trường Đại học Nông Lâm. Về đến nhà chị tôi thì chú Thành bàn giao việc lái xe cho cháu Lâm để vào quận Bình Thạnh thăm anh em.
  Cháu Lâm bay từ Bắc vào để cùng chú Thành thay phiên nhau lái xe đưa bố tôi về. Chúng tôi quyết định nghỉ một ngày mùng 10 tháng 7 lấy sức trước khi khởi hành. Sư Phước Ấn dẫn chúng tôi đi lên chơi miệt vườn Lái Thiêu. Trên đường đi nhà sư đưa chúng tôi vào thăm chùa Hoàng Ân Cổ Tự nói là để cho các con được xem Xá Lợi của nhà Phật. Vào đến chùa gặp ni sư trụ trì- Sư Huệ Tâm cho biết là thầy trò chúng tôi rất hên, hôm nay nhằm đúng vào ngày nhà chùa làm lễ nghinh đón Xá Lợi từ Mi An Ma về. Lễ nghinh đón lần này do nhà doanh nghiệp Kim Lan ở Sài Gòn thay mặt nhà chùa sang Mianma thỉnh Xá Lợi Phật. Chúng tôi vào trong chùa, ở đây đã được trưng bày rất nhiều Xá Lợi của nhiều vị Bồ Tát. Không hiểu sao một chùa không lớn lắm như Hoàng Ân Cổ Tự mà lại đã có nhiều Xá Lợi Phật đến thế. Nhớ hồi đầu năm chùa Bái Đính nghinh đón ba viên Xá Lợi Phật và sáu viên Xá Lợi Cao Tăng về chùa mà người đổ đi xem làm tắc đường tới mấy cây số. Xem ra đạo Phật ở miền Nam phát triển hơn nhiều so với miền Bắc. Do tắc đường, xe bà Kim Lan đến hơi muộn so với dự kiến. Xá Lợi được đặt trong hai cái mâm đầy hoa đưa từ xe vào sảnh đường. Các ni sư của chùa và các ni sư  đang học Hạ ở chùa xếp hàng chính giữa, còn đám đệ tử chúng tôi thì xếp hàng ở hai bên.
     Bắt đầu hành lễ. Ni sư Huệ Tâm đứng trên điều hành các sư đọc kinh, sau buổi đọc kinh, Ni sư Huệ Tâm còn đọc một bài thơ. Sư Huệ Tâm cũng còn là một nhà thơ. Theo sư Phước Ấn cho biết, sư Huệ Tâm vốn xuất thân từ một gia đình sang trọng, sau khi cha mẹ mất, bao nhiêu tài sản nhà sư dồn hết cho việc xây dựng nhà chùa. Chùa Hoàng Ân Cổ Tự vốn chỉ có ni sư, sư làm việc ở đây  có hơn một chục người nhưng chùa lại còn là một trường học nên thường xuyên có hàng trăm các ni sư từ các nơi khác đến học. Hôm nay, có khoảng 100 người phần lớn là các ni sư được phát ngọc Xá Lợi. Chúng tôi đúng là những người may mắn vô cùng. Vợ chồng tôi, chú Khoái và Lâm mỗi người cũng được phát một viên. Viên ngọc của chúng tôi được phát là Xá Lợi của ngài Mục Kiền Liên Bồ Tát. Ngài Mục Kiền Liên chủ trách về việc hiếu lễ và hòa thuận. Tôi còn lo chụp ảnh lấy hình tư liệu nên thiếu chút nữa là không được, may nhờ có ni sư Huệ Thiện kéo sư Huệ Tâm quay lại thì tôi mới được phát Xá Lợi. Thế là mặc dù đi suốt hành trình với nhau nhưng hôm nay Thành lại không có cái duyên để được ngọc. Sư Phước Ấn cho biết, có nhiều nhà sư tu hành cả đời chưa chắc đã có được một viên Xá Lợi. Xá Lợi Phật phải được thờ phụng chăm chút và thành tâm hướng thiện, nếu không nó sẽ bị tiêu đi còn nếu chăm chút và thành tâm, làm nhiều việc thiện thì Xá Lợi sẽ lớn lên và còn đẻ thêm ra các viên khác, và sẽ chuyển thành những màu sắc khác nhau, đó là điều đặc biệt khác thường.
 
img_5385
    Ngày 11 tháng 7, sau khi sư Phước Ấn cúng cơm cho cha tôi, nhà chùa chiêu đãi chúng tôi mỗi người một bát phở chay. Chúng tôi chụp ảnh lưu niệm rồi khởi hành lên đường đưa cha tôi về quê hương miền Bắc. Xe chạy qua khu vưc Phong Nha Kẻ Bàng thì bị trạm chặn đường kiểm soát. Vợ tôi bảo là chở hài cốt thế là anh cán bộ Kiểm Lâm kéo ngay valie cho chúng tôi đi không cần có ai phải xuống xe. Đến đoạn giáp ranh giữa Nghệ An và Thanh Hóa lại bị cảnh sát giao thông chặn kiểm tra xe. Cháu Lâm xuống xe và được người sỹ quan cho biết là mắc hai lỗi: chạy quá tốc độ và dẵm vạch. Cháu Lâm bảo là chở hài cốt cần đi nhanh cho kịp giờ, người cảnh sát hỏi thế chở hài cốt thì rượu đâu, giấy tờ đâu? Nhưng sau đó anh ta cũng cho xe đi ngay. Chắc chẳng có ai lại dại gì mà giữ xe chở hài cốt. Về đến ngã ba Ba La thì bị tắc đường do nước ngập. Cả Hà Nội nước ngập nhiều nơi do mới có một trận mưa to hồi sáng. Thủ đô một ngàn năm văn hiến chưa thoát khỏi cảnh ngập lụt,việc cải tạo hệ thống tiêu thoát nước còn là cả một bài toán chứa nhiều ẩn số. Chúng tôi về đến làng vào hồi 14h15p . Ở đây, người nhà con cháu đã chờ đón đông đủ. Có hai ni sư là đệ tử của sư Phước Ấn cũng được mời đến để làm lễ cho cha tôi. Hai ni sư này một người tên là Chúc Tiến một người tên là Tuệ Trí đều vừa tốt nghiệp Đại học Phật giáo Sóc Sơn ra. Một cái lán được dựng tạm cạnh nghĩa trang làm nơi cho các nhà sư làm thủ tục cho cha tôi để đưa vào mộ.
   Sau khi đưa hài cốt cha tôi vào mộ, các nhà sư còn về nhà thờ chi họ đồng thời cũng là nhà tôi ở quê  tiếp tục làm lễ cầu kinh niệm phật, hai nhà sư còn quay lại vào hai ngày sau  để làm lễ mở cửa mả sau khi gia đình  xây xong ngôi mộ cho cha tôi.
   Lúc mới vào Nam, năm 1953 còn được viết bằng thư chưa phải dùng bưu thiếp, trong một lá thư gửi mẹ tôi, cha tôi có nhắc đến lời một bài hát của nhạc sỹ Hoàng Giác: " Tung cánh chim tìm về tổ ấm, nơi sống bao ngày giờ đằm thắm, nhớ phút chia ly ngại ngùng lúc ra đi, luyến tiếc bao nhiêu ngày xanh...". Đó cũng là nguyện vọng của  những người vì hoàn cảnh đặc biệt nào đó mà phải tha hương viễn xứ.
   Thế là sau 57 năm lưu lạc, cha tôi đã được chúng tôi đưa về quê hương, chỉ có điều khi đi ông còn là một thanh niên to khỏe đẹp trai, còn khi trở về thì đã là người thiên cổ. Bất giác tôi nhớ lại câu ca dao và xin sửa lại hai từ cuối của câu tám như sau:
                                  Cao su đi dễ khó về
                                  Khi đi trai trẻ khi về khói hương.
 
                                                       C.S
 
                                                                        
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)