Nhà văn Đoàn Minh Tuấn – “của để dành” cho thế hệ đi sau
Nguyễn Thị Mai
Trong Hội Nhà văn Việt Nam, những người tay cầm bút, tay cầm súng đi qua hai cuộc kháng chiến trường ký gian khổ của đất nước, giờ không còn mấy ai.
Trong số còn mấy ai, những nhà văn trên 90 tuổi đời, gần 8 chục tuổi Đảng quả là hiếm hoi ít ỏi, quá ít ỏi. Họ như thể “của để dành” cho thế hệ đi sau, bởi họ không chỉ góp phần công sức làm nên lịch sử mà còn viết lại lịch sử của thời đại họ sống và chiến đấu với tinh thần yêu nước thiết tha, đồng hành cùng dân tộc cho đến hết cuộc đời. Một trong những người quý hiếm còn lại đó là nhà văn Đoàn Minh Tuấn.
Tên ông, ở “làng văn học nghệ thuật Việt Nam” hiện trùng với 2 người. Một Đoàn Minh Tuấn sinh 1969 – nhiếp ảnh gia có tiếng. Một Đoàn Minh Tuấn sinh 1959 – nhà biên kịch điện ảnh tài ba. Còn ông: Đoàn Minh Tuấn sinh 1932 - Nhà văn, nhà báo, nhà biên kịch phim tài liệu nghệ thuật tài năng với bề dày hơn 70 năm cầm bút.
Và bài viết này xin được viết về ông – Một lão thành Cách mạng – suốt cuộc đời sáng tạo không mệt mỏi với nhiều tác phẩm gây ấn tượng trong lòng bạn đọc bao thế hệ như: “Thầy giáo vùng cao”, “Em đội viên mắt sáng”, “Núi sông hùng vĩ”, “Trăm năm một thuở”, “Bác Hồ cây đại thọ”...
Một thời trai trẻ khát khao
Băng sông vượt núi đã bao dặm đường
Khu năm dằng dặc chiến trường
Chí trai quả cảm phi thường xông pha
Làm nên ngọn bút tài hoa
Bảy mươi năm viết thiết tha với đời
Ấy là những câu thơ tôi viết gửi tặng ông vào ngày sinh nhật lần thứ 90. Ông cảm động lắm. Từ trong Nam nhắn ra: “Cảm ơn! Em vô đây một chuyến chơi. Ta giờ một chân đã đứng trong nghĩa trang. Em vào muộn thì ta đã nằm trong nghĩa trang rồi”. Lời ông nửa đùa nửa thật. Phần “nửa thật” nghe rờn rợn mà thương xót. Bởi mấy năm nay ông hay “nói chơi” về cái chết. Chẳng hạn ông hay trêu bạn bè “Tạm ứng cho ta tiền vòng hoa viếng”. Hoặc có lần, tôi đưa mấy nhà văn nữ vào Nam đi thực tế, Đoàn Minh Tuấn biết tin liền xin được chiêu đãi bữa sáng cà phê. Bữa ấy ông chọc đùa mấy chị em: “Hôm nay ta vui lắm vì được “trần trụi giữa bầy sói”. Rồi ông phát vào tay mỗi người một tờ 2 Đô la để lên đường cho may mắn.
Đoàn Minh Tuấn là người trầm lắng, không ồn ào. Nhưng đã giao tiếp với bạn bè ông luôn hài hước, dí dỏm, tính lạc quan, nên không mấy ai biết từ trong sâu thẳm cõi lòng ông có nhiều nỗi niềm “dấu nhẹm”.
Ông sinh ra tại làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi – nơi đã có 504 người dân vô tội bị giặc thảm sát. Gia đình ông từng phải rời nhà 7 lần vì bị khủng bố. Năm 1945, mới 13 tuổi ông đã xa nhà làm trinh sát tại chiến trường Liên khu V. Từ đó, suốt 10 năm người lính Đoàn Minh Tuấn đã rong ruổi gian nan chiến đấu hàng chục trận trên chiến trường Tây Nguyên và được kết nạp Đảng từ năm 17 tuổi. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc học đại học, làm biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, rồi vượt Trường Sơn lần thứ hai về lại Tây Nguyên làm công tác tuyên truyền võ trang cho đến ngày giải phóng Miền Nam.
Trong chuyến đi B vượt Trường Sơn lần thứ hai ấy có một chuyện vô cùng cảm động. Ấy là chuyện ông về thăm làng cũ tìm mẹ. Nhưng mẹ ông đã đưa gia đình chạy giặc vào Sài Gòn. Nhờ tổ chức liên lạc, mẹ ông đã phải đóng giả làm người ăn xin mang nón mê bị gậy để vượt qua bao đồn bốt giặc trở ra gặp con. Còn ông phải vượt qua đường số 1 “cửa tử” để chờ đón mẹ. Lúc gặp nhau, hai mẹ con ôm nhau khóc nghẹn không nói nên lời vì 20 năm xa cách, mẹ bây giờ đã bạc trắng tóc. Rồi ông đưa mẹ về làng. Nhưng đến nơi, nhà cửa đã tan nát hết trong bom đạn. Đoàn Minh Tuấn phải cõng mẹ lần mò trong đêm sang làng khác nghỉ nhờ.
Sau ngày Giải phóng Miền Nam, nhà văn Đoàn Minh Tuấn ở lại Thành phố Hồ Chí Minh làm Truyền hình, Xuất bản, Báo và Tạp chí với cương vị cao và chủ chốt. Cuộc đời công tác của ông gắn liền với sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật, phát triển và song hành với từng bước đi của cách mạng. Tuy gian nan cơ cực nhưng khá vẻ vang thành đạt. Còn cuộc sống gia đình, đời tư của ông lại rất “hoàn cảnh”. Những năm tập kết ra Bắc sống tại Hà Nội thì thật nghèo khổ. Nhà chỉ 12 mét vuông, tất tật đồ đạc nhét gầm giường, không có nổi chiếc bàn viết, phải dùng giường làm bàn và ngồi xuống đất viết lên mặt giường.
Núi sông hùng vĩ ta ơi
Mai sau còn có ai người biết chăng?
Bàn viết là chiếc giường nằm
Văn nhân ngồi đất làm tằm nhả tơ…
Khi có gia đình và nhà cửa thì vợ mất. Mà hai lần lấy vợ, họ đều mất sớm cả hai. Mỗi bà chỉ sống với ông đúng 15 năm rồi xa khuất. Ông chật vật nhiều năm trong cảnh gà trống nuôi con thiếu thốn trăm bề. May nhờ đức tính cần cù chịu thương chịu khó cóp nhặt từng đồng viết báo viết văn, lại được bạn bè yêu thương giúp đỡ nên mọi cơ khổ rồi cũng qua. Vật chất ngày càng tốt lên nhưng nỗi buồn ngày càng sâu đậm. Buồn vì tuổi già sức yếu. Buồn vì bạn bè cùng trang lứa mất mát gần hết, không còn người trò chuyện. Buồn hơn cả là thương nhớ hai người vợ nhân hậu tử tế đã về nơi chín suối. Nhớ lại hơn hai mươi năm trước, sau khi người vợ thứ hai của ông mất, nhà văn Nguyễn Khải từng thủ thỉ tâm tình vơí ông: “Thôi, ông đừng có đi thêm bước nữa. Vì không có ai tốt bằng hai người đàn bà vừa rồi của ông đâu…”. Đúng thế. Người vợ thứ nhất là bà Nguyễn Thị Minh Tâm, cưới năm 1965, ông phải vượt qua 300 cây số đèo xe đạp từ Vinh ra Hà Nội để làm đám cưới. Bà đã gánh vác, lo toan cho gia đình suốt thời khó khăn bao cấp để ông yên tâm công tác và viết báo viết văn kể cả những năm tháng ông đi B biền biệt. Thế rồi, vào một đêm hè năm 1981, khi ông đang công tác ngoài Hà Nội ở nhà Hoàng Trung Thông bỗng tin báo dữ: Vợ và con bị tai nạn giao thông. Ông bay vội về Sài Gòn. Nào đâu phải chỉ con bị thương mà vợ ông cũng vĩnh biệt sau bao phút hấp hối có ý chờ mong chồng về. Bà thứ hai là Dương Thị Hoàng Anh, ông cưới năm 1987. Khi biết mình bị bệnh hiểm nghèo không thể qua khỏi, bà đã giấu chồng, trong cơn đau đớn tuyệt vọng, bà giả cười vui nghiến răng tập hợp hơn 20 tác phẩm và hàng ngàn bài báo của ông viết trong hàng chục năm để in thành Tuyển tập gần một ngàn trang làm quà kỷ niệm cho ông với lời nhắn gửi rơi nước mắt: “Mình ơi, em để lại trăm ngàn yêu thương cho anh, cho con chúng mình và may ra đến tay bạn đọc”. Đó là hai người vợ tuyệt vời, hai “hậu phương” vững chãi, nghĩa tình sâu nặng nhất của cuộc đời mà ông không bao giờ còn có được.
Mấy năm trước, cứ mỗi sáng thứ tư hàng tuần, nếu gọi điện thoại thì thể nào cũng nghe ông bảo đang ngồi ở 81 Trần Quốc Thảo – khu vườn của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi hình dung ông đến đây uống cà phê cùng bạn bè để lặng lẽ nghe và thủng thẳng “chêm” vài câu hài hước về sự đời. Nhưng giờ thì hiếm đến nơi ấy rồi. Ông bảo chỉ “cà phê” với mấy ông bạn già ngoại đạo văn chương ở gần nhà. Vì thứ nhất các con không muốn bố đi chơi xa. Thứ hai ra đó, đã vắng các bạn văn cùng trang lứa, không còn người tâm đầu ý hợp. Càng ngày ông càng thấy trống vắng, hoang hoải cõi lòng giữa căn nhà đầy sách và giữa phố phường người xe đông đúc náo nhiệt. Thương ông, bạn bè văn chương đàn em thường đến với ông những lần sinh nhật để ông vui. Nhưng năm ngoái ông gọi điện tâm sự: “Hôm nay sinh nhật ta vắng lắm. T.N.H cũng không đến”. Thế mới biết ông nhớ và thèm có bạn bè biết chừng nào.
Lần Đại hội Nhà văn Việt Nam cuối năm 2020, Đoàn Minh Tuấn ra dự Đại hội với tư cách Đại biểu được mời đặc cách. Tuy tác phong “lính trinh sát” còn khá nhanh nhẹn nhưng đôi vai đã trĩu niềm khắc khổ và trò chuyện thấy ít lời: “Ta ra Đại hội lần này là cuối thôi. Lần sau chắc không còn thấy mặt”. Động viên ông: “Chưa cuối. Còn ra vài Đại hội nữa”. Ông cười rầu rầu: “Bạn bè viết văn làm báo cùng thời gian khổ có nhau nay mất hết cả rồi. Ra Bắc nhớ họ, buồn lắm”. Ở ông có nỗi cô đơn chung của người già, có tình cảm sâu nặng của người cầm bút sống ân tình nhân nghĩa nên mỗi khi chạm vào ký ức là không khỏi động lòng trắc ẩn.
Nhớ cách đây mấy năm, ông tặng tủ sách gần 10 ngàn cuốn cho một trường học ở Quảng Ngãi quê ông. Xe chở sách đi rồi, ông thẫn thờ cả ngày và suốt mấy đêm không ngủ được. Bởi đó là những đam mê khát vọng một thời, là những đồng tiền chắt bóp những ngày khó khăn dụm dành mua sách, là kỷ niệm của bạn bè, là trí tuệ của nhân loại cả đời ông gìn giữ nâng niu:
Một đời tích cóp văn chương
Vin vào chữ nghĩa mà nương lấy mình
Tuy rằng sách chỉ lặng thinh
Mà sao chung thuỷ, chung tình sắt son
Đêm xa sách, ngủ chẳng ngon
Phòng như trống rỗng không còn tri âm…
Người sống sâu sắc thì thế. Lại nhớ năm 2008, tôi có chuyến công tác vào Thành phố Hồ Chí Minh. Hôm ấy nhà thơ Lê Thị Mây mời uống cà phê với nhiều bạn bè thơ phú. Tôi vì kẹt xe nên đến muộn. Bước vào đã thấy rất đông các anh chị đang ngồi chờ mình. Đang ngượng ngùng quá thì một ông trông rất đáng kính khủng khỉnh oánh một câu: “Người quan trọng bao giờ cũng đến muộn, ta thông cảm”. Mọi người oà lên cười vui trong khi tôi hơi ưng ức trong lòng. Ngay sau đó được biết “ông đáng kính” kia là nhà văn Đoàn Minh Tuấn – người đã từng viết tác phẩm “Núi sông hùng vĩ” khiến thế hệ chúng tôi ngưỡng mộ từ thời đi học thì tôi “choáng”. Từ đó, tôi trân trọng và quý mến ông vô cùng. Sau này càng tiếp xúc với ông, càng thấy ông hay hài hước, hóm hỉnh không chỉ trong viết lách mà trong cả cuộc đời.
Năm ngoái có chuyến công việc vào Nam, tôi ghé thăm ông, lúc chia tay ông lại đùa: “Em tạm ứng cho ta tiền vòng hoa trước để khỏi phải gửi vào”. Biết sẽ có một ngày buồn đau là thật nhưng vẫn phải cười cho át nỗi niềm thương ông.
Không thương, không trân trọng sao được một nhà văn vừa có tài vừa có nhân cách là ông.
Tài ở sự nghiệp sáng tác để lại cho đời trong đó có rất nhiều Giải thưởng Văn học. Những năm tháng đất nước còn nghèo khổ và chiến tranh, việc tham quan du lịch là hiếm hoi, xa xỉ. Bộ ký “Núi sông hùng vĩ” 3 tập ra đời dẫn dắt bao lớp người như được chu du và hiểu biết nhiều miền quê văn hoá đẹp giàu, nhiều di tích lịch sử vẻ vang của đất nước như Phong Châu, Cổ Loa thành, Mê Linh, Hoa Lư, Bạch Đằng, Vân Đồn, Chi Lăng…Từ miền Bắc đến miền Nam Tổ Quốc. Với lời văn nhẹ nhàng, giàu hình ảnh và khúc triết, với vốn hiểu biết khá nhiều, ông đã khơi dậy trong lòng thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc. Từ đó họ sẵn sàng cống hiến sức mình bảo vệ, dựng xây Tổ Quốc.
Với tác phẩm truyện ký “Bác Hồ cây đại thọ”, nhà văn Đoàn Minh Tuấn đã kể cho ta bao câu chuyện về Bác thật cảm động, chí lý chí tình. Ông làm cho các thế hệ hiểu đúng và kính trọng những điều giản dị mà vĩ đại trong con người Hồ Chủ tịch khiến họ tin yêu, làm theo tư tưởng của Người.
Về chân dung các văn nghệ sĩ nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật, nhà văn Đoàn Minh Tuấn lại có tài thuật chuyện hấp dẫn. Lời văn ông trung thực, giản dị, hóm hỉnh. Chi tiết sinh động, độc đáo. Cái nhìn trân trọng và ngưỡng mộ. Chân dung nhân vật trong lời kể của ông hiện lên sáng ngời tài năng đức độ khiến bạn đọc trân trọng và cảm phục nhân cách họ. Đặc biệt ông có tới hai chục bài viết, kể cả kịch bản phim về Nhà văn Nguyễn Tuân – người thày, người bạn vong niên suốt thời sống ở Hà Nội bên nhau, ai đọc cũng thấy thú vị, còn gọi đùa ông là “Nhà Nguyễn Tuân học”. Nên khi nghe tin Nguyễn Tuân mất, ông sửng sốt và hẫng hụt vô cùng. Vì đau mắt nặng không ra Hà Nội viếng được, Đoàn Minh Tuấn gửi điện chia buồn tới Hội Nhà văn và gia đình Nguyễn Tuân, trong đó có 2 cầu thơ đưa tiễn: “Anh đã đi vào cõi bất tử/ Nào phải đâu chỉ VANG BÓNG MỘT THỜI”.
Cuốn Tạp chí “Nhà văn và Cuộc sống” số 14 năm 2013 vừa ra có bài ông viết về nhà văn Đoàn Giỏi in 20 trang. Sau khi đọc và biên tập để in bài này, nhà thơ Trần Đăng Khoa – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn &Cuộc sống đánh giá: Nhà văn Đoàn Minh Tuấn thật đúng là người có nhân cách tử tế và trung thực với bạn văn. Nếu không, ông có thể lấy toàn bộ đề cương cuốn tiểu thuyết định viết cho thiếu nhi của Đoàn Giỏi gửi ông, mà biến tấu thành cuốn truyện của mình một cách dễ dàng mà không một ai biết.
Ngoài ký và truyện ký, Đoàn Minh Tuấn còn viết nhiều thể loại khác như truyện ngắn, du ký, tuỳ bút, chân dung, tiểu luận, phê bình, kịch bản phim, kịch rối thiều nhi, chuyện xưa tích cũ…và có tới hàng ngàn bài báo đã đăng, bài thuyết minh cho phim phóng sự truyền hình và điện ảnh. Không chỉ trong nước, bước chân ông còn đi và làm việc tại hơn 40 quốc gia trên thế giới. Nơi nào ông cũng viết bài và nhiều nơi đã làm phim phóng sự đặc sắc.
Không tài giỏi và dồi dào bút lực sao ông viết được nhiều như vậy? Nếu không hay, không hấp dẫn sao nhiều tác phẩm của ông cứ luôn luôn tái bản? riêng cuốn “Bác Hồ cây đại thọ” tái bản tới 19 lần. Văn không chân thiện mỹ sao nhiều tác phẩm của ông được đưa vào sách giáo khoa dùng trong nhà trường liên tục?
Quen nhà văn Đoàn Minh Tuấn đã nhiều năm, được trò chuyện với ông nhiều lần, chưa bao giờ tôi nghe ông nói năng hùng hồn, to tát, hoặc khoe mình giữa đông người. Chỉ thấy ông lặng lẽ với những niềm tự hào đáng trân trọng. Hồi cuối năm ngoái ông được trao huy hiệu 75 tuổi Đảng. Tờ Quyết định ông phô tô gửi riêng cho tôi xem. Thấy ghi dòng tiền thưởng kèm theo là 15 triệu đồng, tôi xuýt xoa “nhiều thế”. Ông thủng thẳng: “Đời người là cái chi chi/ Chặng qua còn lại những gì nữa không”. Tôi hiểu, với ông, tiền bạc dù khi khó khăn đói nghèo ông cũng không coi trọng hơn tình người. Ông vẫn luôn hàng tháng để ra 2 triệu làm từ thiện. Năm 2017, ông đã gửi tiền ra Bắc góp mua 2 chục chiếc chăn bông tặng các cháu học sinh trường nội trú ở Tả Sìn Thàng, huyện Tủa Chùa (Điện Biên). Hồi Sài Gòn sau giải phóng, bạn tôi – một cô giáo rất nghèo phải bỏ nghề dạy học vì không đủ sống. Khi đó bạn tôi nhờ ông xin cho cái giấy phép để kinh doanh băng đĩa nhạc. Ông xin được. Lúc đưa cho cô ấy, ông dặn: “Cái giấy phép này là 2 cây vàng đó. Nhưng đừng bán. Để mà làm ăn”. Sau mấy chục năm tình cờ gặp ông, vợ chồng cô bạn tôi kể lại. Ông cười: “Có chuyện đó thật à?”.
Đoàn Minh Tuấn là vậy. Nhân hậu, nhân văn, sâu sắc và tử tế. Dù giờ có lương hưu cao, trợ cấp và chế độ khác nhưng ông vẫn giản dị, khiêm nhường. Điện thoại vẫn Nokia cục gạch, không biết nhắn tin chỉ nghe và gọi. Vì thế Tết vừa rồi, ông gọi ra cho tôi: “Ta có đôi câu đối tặng Hữu Thỉnh nhưng không biết nhắn tin, em nghe ta đọc rồi viết ra mang đến tặng Hữu Thỉnh giúp ta”. Tôi nhận lời ngay và cầm bút viết: “Tiết tháo cội tùng trơ một gốc/ Tinh anh sao Vĩ chói ngàn thu”.Viết xong tôi ngẫm nghĩ. Quả là rất đúng với phẩm chất của nhà thơ Hữu Thỉnh. Chỉ có người từng trải, sâu sắc, cảm thông như Đoàn Minh Tuấn mới viết ra được điều ấy.
Và bây giờ, tiền ông để “thương người”. Ông bảo: “Có tiền dư giả lại thương nhớ ngày xưa. Ngày xưa ngồi nhậu với Nguyễn Tuân chỉ có nửa lạng giò mà nhậu từ sáng đến 3 giờ chiều. Có hôm mua nửa lạng giò chỉ đủ tiền trả một nửa, còn nợ một nửa”. Kể rồi, mắt ông thăm thẳm sau cặp kính nhìn về xa hút ngày xưa. Ở đó Nguyễn Tuân vẫn như đang giang hồ trên sóng nước cùng ông về chót biển Cà Mau, có một Đoàn Giỏi phóng khoáng hào hiệp, đắm đuối với thiên nhiên của đất rừng phương Nam, có một Hoàng Trung Thông tài hoa danh tiếng mà nghèo khó trong căn gác hẹp, có một Nguyễn Văn Bổng sức dài vai rộng 5 lần vượt Trường Sơn vào Nam ra Bắc, có một Phan Tứ - Lê Khâm ý chí và nghị lực, nhân hậu với bạn bè… và còn nhiều nữa, nào Nguyên Hồng, Tô Hoài, Tế Hanh, Phạm Tường Hạnh, Nguyễn Quang Sáng, Trịnh Công Sơn… Tất cả đã vào chữ nghĩa của ông và đã bỏ ông đi về nơi xa lắm.
Còn ông – nhà văn Đoàn Minh Tuấn tài hoa nhân hậu – người vẫn nhiều vương nợ cuộc đời và còn phải sống thêm tuổi để bù cho hai bà vợ yêu thương đã đi trước ông. Ông chính là “của để dành” cho thế hệ đi sau, là người bắc nhịp cầu văn chương từ quá khứ đến hiện tại hôm nay cho chúng tôi kính trọng.
Thanh Xuân, ngày 9/2/2023.
Người gửi / điện thoại