Xuân Đức trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại
TS. BÙI NHƯ HẢI
Xuân Đức tên thật là Nguyễn Xuân Đức - một tiểu thuyết gia, kịch tác gia nổi tiếng của nền văn học Việt Nam đương đại, có nhiều tác phẩm văn học còn mãi với thời gian. Ông sinh ngày 04 tháng 01 năm 1947, tại xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ Xuân Đức sống cùng gia đình ở quê mẹ, tại bờ Bắc sông Bến Hải - Hiền Lương. Năm 1965, tốt nghiệp phổ thông tại Trường cấp ba Vĩnh Linh, Xuân Đức thoát ly gia đình, rồi tham gia tiểu đoàn 47 quân địa phương Vĩnh Linh chiến đấu tại vùng núi Quảng Trị, phía Nam bờ Hiền Lương. Với vốn kiến thức văn hóa sâu rộng, Xuân Đức đã tham gia viết bài cho báo Quân đội của Khu đội Vĩnh Linh, rồi Quân khu 4. Năm 1976, Xuân Đức được cử tham gia trại sáng tác của Tổng cục Chính trị. Năm 1979, Xuân Đức theo học tại Trường Viết văn Nguyễn Du, khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, Xuân Đức được phân công công tác tại Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị và đã được kết nạp
vào hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1982. Xuân Đức công tác tại đây cho đến khi chuyển ngành với quân hàm Trung tá vào năm 1990. Sau khi trở về Quảng Trị, Xuân Đức sống tại thị xã Đông Hà, Quảng Trị và chuyển ngành công tác tại Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Trị, giữ chức vụ Phó giám đốc Sở. Từ năm 1995 đến 2006, Xuân Đức là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin, Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị. Tháng 7 năm 2006, Xuân Đức nghỉ hưu. Vào lúc 21 giờ, ngày 20 tháng 06 năm 2020, nhà văn Xuân Đức đã trở về với đất mẹ tại nhà riêng Cửa Việt, Quảng Trị sau một tai nạn bất ngờ, hưởng thọ 74. Sự ra đi đột ngột của nhà văn Xuân Đức - một người con Quảng Trị tài danh đã khiến gia đình, người thân, bạn bè văn giới, độc giả bàng hoàng, thương sót và tiếc thương vô cùng.
Xuân Đức không chỉ gặt hái những vụ mùa tiểu thuyết lớn, mà còn đạt được nhiều thành tựu, để lại dấu ấn sâu đậm trong trái tim của bạn đọc, người xem, giới sâu khấu qua các kịch bản sân khấu được dàn dựng, công diễn trong Nam ngoài Bắc, trong nước ngoài nước. Xuân Đức đánh dấu ngay tên tuổi trong làng kịch nước nhà với vở kịch đầu tay Tổ quốc (1985) viết chung với nhà viết kịch Đào Hồng Cẩm. Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Với sự từng trải, vốn sống già dặn, phong phú đã tạo nên nguồn cảm hứng dạt dào, vô tận để Xuân Đức tiếp tục sáng tác hàng chục kịch bản sân khấu, vở diễn hay, có giá trị lớn, đoạt được những giải thưởng cao, danh giá. Những vở kịch đoạt giải “đúp” như Người mất tích - Giải A Bộ Quốc Phòng 1990 về đề tài chiến tranh cách mạng; Đợi đến bao giờ (hay Chuyện đời thường vớ vẩn) đoạt Giải thưởng kịch bản sân khấu nhỏ Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Huy chương vàng Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1990; Cái chết chẳng dễ dàng gì - Giải thưởng cuộc vận động viết về chiến tranh Cách mạng và người chiến sĩ năm 1994, Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Huy chương vàng Hội diễn sân khấu toàn quốc cho kịch bản 1995; Cuộc chơi - Huy chương vàng Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam năm 1995; Chuyện dài thế kỷ - Giải thưởng Hội Nghệ sĩ sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, Huy chương bạc Hội diễn sâu khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1999; Ám ảnh - Huy chương vàng Hội diễn sân khấu toàn quốc 2000, Giải thưởng kịch bản Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam; Chuyến tàu tốc hành trong đêm đoạt giải B (không có giải A) Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam 2007; Chim tapar hót giữa rừng ngàn đoạt giải A cuộc vận động sáng tác về tư tưởng Hồ Chí Minh năm 2010; Nhiệm vụ hoàn thành đoạt Huy chương bạc Hội diễn nghệ thuật chuyên nghiệp toàn quốc 2014, giải B Cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật và báo chí 5 năm Bộ quốc phòng,... Và hai kịch bạn mới nhất vừa được đưa lên sàn diễn Người con gái sông Bồ (Nhà hát kịch nói Quân đội) và Những đứa con thời loạn (Nhà hát nghệ thuật Ca kịch Huế) cũng chính là lúc trái tim của kịch gia nổi tiếng Xuân Đức ngừng đập.
Ngoài số lượng tiểu thuyết và kịch bản sân khấu đồ sộ, có tiếng vang lớn, tạo nên tên tuổi, trở thành tiểu thuyết gia, nhà viết kịch, biên kịch lừng danh, Xuân Đức còn sáng tác cả trường ca, thơ và tản văn. Vốn dĩ Xuân Đức tạo dựng cơ nghiệp văn chương bắt đầu từ thơ ca. Năm 1980, Xuân Đức sáng tác tập trường ca Trăng Cồn Cỏ được độc giả chú ý, tạo nên “hiện tượng lạ” trên thi đàn lúc bấy giờ. Đặc biệt, tác phẩm được nhà thơ lớn Chế Lan Viên ngợi ca, biểu dương và được báo Quân đội nhân dân dành trọn vẹn in cả một trang báo. Nhà văn Xuân Đức đã bộc bạch niềm vui ấy trong ký sự Trăng Cồn Cỏ thuở ấy, nắng Cồn Cỏ bây chừ rằng: “Thật lạ là bài thơ dài tới 332 câu, tôi chỉ viết liên tục trong một ngày một đêm. Viết xong gửi gấp ra cho Báo Quân đội nhân dân. Cũng chỉ mấy ngày sau, bài thơ được đăng tràn hết cả trang 3 của báo. Lại chỉ thời gian ngắn sau đó, tôi nhận được lời khen của một nhân vật mà lúc đó lớp viết trẻ chúng tôi coi như bậc thánh văn chương: Nhà thơ Chế Lan Viên! (sau này nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã nhiều lần nhắc lại sự kiện ấy),... Bất giác tôi nhớ tới lá thư của chị Lệ, một cô gái Quảng Bình, vợ anh Trần Đăng Khoa thời đó là Chính trị viên phó của đảo. Trong lá thư gửi chồng có một đoạn đại ý: “Anh đừng nhớ em,… chỉ để riêng em nhớ anh thôi, anh phải tập trung mà bắn máy bay Mỹ,…”. Bây giờ mà đọc mấy câu như thế chắc nhiều người sẽ thốt lên “sến” quá. Nhưng thời đó, đấy là những câu hết sức chân thực, đọc lên không cầm được nước mắt. Trong Trăng Cồn Cỏ, tôi đã kể về lá thư ấy: “…Năm ngoái thư em có lời cặn kẽ/Anh để riêng em nhớ/Anh hãy tạm quên/Chỉ nhớ mần răng mà bắn cho tinh/Em dặn thế, thực lòng anh cũng thế/Bận bắn máy bay thời gian đâu mà nghĩ/Đêm nay một phút đảo yên/Xốn xang bến động nhớ thuyền/Giận lá thư nhà không cánh,...”([11]). Đến năm 2008, Xuân Đức mới tập hợp những bài thơ đã đăng rải rác trên tạp chí, báo rồi in thành tập thơ đầu tay, có tên Một nửa và sau đó lần lượt trình làng thêm các tập thơ như Xuân cảm, Khúc ru tình già,... Xuân Đức tâm sự rằng, tôi viết thơ chủ yếu cốt để chỉ dành tặng riêng cho mình, vui buồn, nghiệm suy về đời, về chính mình. Ở mảng tản văn, Xuân Đức cũng đã để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc qua các tác phẩm bút ký như Vì sao có tên Trúc Sơn Trang (2008), Mảnh làng trong tôi (2008), Thủ thỉ bên gốc liễu đầu xuân (2009), Cửa Việt - đối diện với trùng khơi (2011), Hùng vĩ Việt Nam (2011), Thấy hiu hiu gió (2013), Nửa ngày trong ngôi nhà 30 Hoàng Diệu (2013), Cồn Cỏ của Vĩnh Linh ngày ấy (2014),… Các tác phẩm này được Xuân Đức sáng tác chủ yếu sau khi đã nghỉ hưu. Đó là những khám phá, cảm nhận, xúc cảm của tác giả về quê hương, về đất nước, về biển đảo, các địa danh nổi tiếng đã ghé đến, về ký ức của tuổi thơ, về các lãnh tụ, danh nhân văn hóa,... Ngoài ra, Xuân Đức còn là tác giả chính của hàng trăm tác phẩm kịch ngắn, tiểu phẩm ngắn, các chương trình văn nghệ quần chúng cơ sở tham gia dự thi và đã đoạt giải cao như Quê hương, Hoa lim, Trận địa, Đường biển, Đường vòng tròn, Tiếng hát sông Hiền, Sen hồng Thành cổ, Dòng sông hoa đỏ,... Thai nghén, dàn dựng cùng đồng nghiệp về các chương trình lễ hội được trực tiếp từ Quảng Trị trên sóng truyền hình Việt Nam Huyền thoại trường Sơn, Nhịp cầu xuyên Á, Liên hoan đường Chín xanh, Lễ hội thống nhất non sông,... rất thiết thực, có ý nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng, trở thành “thương hiệu tâm linh” về văn hóa của Quảng Trị. Một biệt tài của Xuân Đức ít người biết đến nữa, đó là “nghề” viết văn bia. Xuân Đức viết khá nhiều văn bia ở các di tích lịch sử đặc biệt trong cả nước. Nội dung văn bia sâu sắc, giàu tính nhân văn, cấu tứ chặt chẽ, ngôn từ hàm xúc,... Mỗi tác phẩm của Xuân Đức chính là sự khám phát, tìm tòi, phát hiện mới, độc đáo về nội dụng và hình thức nghệ thuật. Tác phẩm của Xuân Đức luôn nóng hổi hơi thở của thời thời đại, của cuộc đời, vì thế đã đến và neo đậu được nơi trái tim của độc giả, giới nghiên cứu văn học, sâu khấu điện ảnh,...
Hơn năm mươi năm lao động “chữ” của nhà văn Xuân Đức là một sự nỗ lực miệt mài, bền bỉ, không mỏi mệt, nghiêm túc của một bút lực sung mãn, của một sức sáng tạo dồi dào đã sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ, có giá trị ở tất cả các thể loại. Có những đóng góp lớn, góp phần làm thay đổi tiến trình phát triển, diện mạo văn học cũng như văn xuôi Việt Nam đương đại nói riêng bề thế hơn, phong phú hơn, hiện đại hơn. Những thành quả Xuân Đức có được, đã khẳng định tài năng của một cây bút tài hoa, rất xứng đáng được đứng vào tốp các nhà văn tiêu biểu Việt Nam sau 1975, cũng như rất xứng tầm khi nhận được Giải thưởng Nhà nước chuyên ngành Văn học năm 2007.
Maine, tháng 7/2020
(1) Xuân Đức (1985), “Mảnh làng trong tôi”, Tạp chí Sông Hương, số 12.
(1) Đinh Như Hoan (2005), “Xuân Đức, nhà văn của miền cửa gió”, Nguồn: nhandan.com.vn, (5/10).
(2) Nguyên Khánh (2020), “Hồn về với Cửa gió”, Nguồn: tienphong.vn, (20/06).
(1) Xuân Đức (2009), “Văn học nghệ thuật Việt Nam - sự lựa chọn nào cho tương lai?”, Tạp chí Cửa Việt, số 189.
(2) Tôn Phương Lan (1983), “Đọc Cửa gió của Xuân Đức”, Tạp chí Văn học, (số 2), tr.162.
(1) Bảo Hà (2020), “Tác giả tiểu thuyết Người không mang họ đột ngột qua đời”, Nguồn: baomoi.com, (22/06).
(1) Lê Thanh Nghị (2011), “Trở lại Bến đò xưa lặng lẽ”, Nguồn: http:// www. xuanduc.vn.
(2) Lê Thanh Nghị (2011), “Trở lại Bến đò xưa lặng lẽ”,...
(3) Đỗ Thu Thủy (2008), “Nhân vật người kể chuyện trong tiểu thuyết Bến đò xưa lặng lẽ của nhà văn Xuân Đức”, Nguồn: http:// www.xuanduc.vn.
(1) Hiền Nguyền (2008), “Có thể viết cuốn tiểu thuyết này bằng cách khác hay hơn được không?”, Nguồn: toquoc.vn. (5/8).
(1) Xuân Đức (2019), Trăng Cồn Cỏ thuở ấy, nắng Cồn Cỏ bây chừ, Nguồn: https://ct.qdnd.vn, (8/4).
Người gửi / điện thoại