bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 0855890003

CÁM ƠN ANH ĐỨC BÌNH CỘNG TÁC!CHÚC ANH VUI KHỎE!

 

ĐỨC BÌNH

Xin cám ơn BAN BT trang TÁC PHẨM VÀ BẠN ĐỌC !

 

VŨ NHO 085 589 0003

Tôi không xem chương trình VUA TIẾNG VIỆT. Cứ theo những gì bác Đinh Y Văn tường thuật thì đích thị là TRÒ CHƠI Đoán từ. Người nhìn từ trong Từ Điển, nói "chữ" đầu của từ, rồi nói "chữ" sau. Người kia...

 

Đinh Y Văn

Trân trọng cảm ơn Tổng biên tập đã dành sự quan tâm đến bố con cụ Đinh Y Văn!

 

Đinh Y Văn

Xin có lời thưa lại, hình như cụ ĐYV bị quy oan là “lơ mơ” ?! Tên chính thức vòng 2 chương trình Vua tiếng Việt là GIẢI NGHĨA, không phải là ĐOÁN TỪ bác ạ.

 

vũ nho 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ BÁO, NHÀ NGHIÊN CỨU NGHIÊM THỊ HẰNG!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 21
Trong ngày: 119
Trong tuần: 1465
Lượt truy cập: 774829

NHỮNG THU HOACH ẤN TƯỢNG...( TIẾP)

ong_nho

                   NHÀ VĂN VŨ NHO

3. PHÂN LUỒNG VÀ PHÂN HÓA HỌC SINH Ở CÔNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC
            Học sinh từ 3 đến 5 tuổi đi học vườn trẻ và mẫu giáo theo chế độ tự nguyện. Tùy từng bang mà tỉ lệ trẻ đi học khác nhau. Đối các bang do đảng  Liên minh dân chủ Thiên chúa giáo (CDU) nắm quyền, người ta ủng hộ việc học sinh nhỏ tuổi phải sống với gia đình, nên không khuyến khích học sinh đi nhà trẻ hoặc mẫu giáo. Đối với các bang do đảng  Dân chủ xã hội (SPD) cầm quyền, người ta khuyến khích học sinh đi học mẫu giáo. Tại bang Brađenbuôc ( Đông Đức cũ) có 70% trẻ em đi học mẫu giáo.
          Từ 6 tuổi học sinh bắt đầu nhập học phổ thông. Tuổi học tập bắt buộc là từ 6 cho đến hết 18 tuổi.
          Bậc tiểu học, tùy các bang có thể có 4 lớp hoặc 6 lớp. (Trong đánh giá so sánh quốc tế về chất lượng tiểu học, nước Đức đứng thứ 6 về khoa học tự nhiên, thứ 10 về môn tập đọc và thứ  12 về môn Toán. Có 18% học sinh đạt chất lượng giỏi và 10% học sinh không đọc được).
          Bậc THCS  đã bắt đầu định hướng, trong đó lớp 5 và lớp 6 làm thành một giai đoạn khuyến khích, quan sát, định hướng.
          Bắt đầu từ lớp 7 đến lớp 10 học sinh sẽ được phân luồng để học trong các loại trường định hướng nghề nghiệp rõ ràng. Trường Hauptschule là trường đào tạo những học sinh có thiên hướng về các nghề nghiệp lao động giản đơn. Trường Realschule đào tạo các học sinh có xu hướng đi học các trường trung cấp chuyên nghiệp và các trường kĩ thuật nghề với hơn 400 nghề nghiệp trong danh mục nghề của nước Đức. Trường              Gymnasiym  là trường đào tạo các học sinh có xu hướng học lên các trường đại học. Ngoài ra còn có loại trường  Gesamtschule là trường tích hợp cả ba loại hình trường nêu trên. Trường này thường là  ở những nơi vùng sâu, vùng xa.
          Việc vào học các trường phân hóa là tự nguyện và do sự tư vấn của trường tiểu học sau khi đã theo dõi quá trình học tập, đồng thời, với một số bang, do theo dõi 2 năm học lớp 5  và lớp 6. Phụ huynh có thể không theo tư vấn, đưa con mình vào trường cao hơn khả năng. Nhưng sau một học kì, nếu học sinh không theo được thì sẽ phải chuyển về trường cũ.
          Sau khi tốt nghiệp THCS hệ 9 hoặc 10 năm, học sinh có thể đi học nghề tại trường nghề và xí nghiệp, đi học trung cấp chuyên nghiệp, đi học trường THPT nghề, hoặc  trường Gymnasium bậc cao ( từ lớp 11 cho đến lớp 13).
          Tại trường THPT, ( lớp 11 đến lớp 13, ở một số bang là lớp 10 đến lớp 12; hiện nay nước Đức đang cải cách để thống nhất bậc THPT từ lớp 10 đến lớp 12) học sinh học tập theo chương trình phân hóa với các môn tự chọn. Năm lớp 10, học sinh học theo lớp học cố định cổ điển. Năm lớp 11 và 12. học sinh học theo hình thức lớp các môn tự chọn.  Mỗi môn học đều có sách cơ bản và sách nâng cao. Học sinh học sách cơ bản với thời lượng 3 tiết/tuần. Học sinh học sách nâng cao với thời lượng 5 tiết/tuần. Các môn Toán, Tiếng Đức, Ngoại ngữ là môn học bắt buộc với tất cả học sinh.
          Thi tốt nghiệp THPT gồm  thi viết 2 môn nâng cao hệ số 4, thi viết 1 môn cơ bản hệ số 4 và thi vấn đáp 1 môn cơ bản hệ số 4. Nếu kết quả của 3 môn thi viết thấp, học sinh có thể chọn thi vấn đáp 2 trong số 3 môn thi viết để nâng cao kết quả.
          Như vậy là nền giáo dục Đức thực hiện phân luồng học sinh rất sớm, song song với phân luồng là phân hóa. Để khắc phục nhược điểm của sự phân luồng sớm, người ta cho phép một bộ phận nhỏ học sinh  xuất sắc của trường Hauptschule được chuyển sang trường Realschule, một bộ phận xuất sắc của trường Realschule có thể chuyển qua trường Gymnasiym. Trong cải cách giáo dục hiện nay, việc phân luồng và phân hóa sớm bị phê phán mạnh mẽ bởi chính người Đức. Họ đang hướng tới trường dạy toàn diện các môn như trường THPT của Phần Lan.
Chúng tôi hỏi giáo sư Bend Mayơ về việc phân luồng và phân hóa muộn ở Việt Nam, giáo sư trả lời rằng ông ủng hộ việc phân hóa muôn ở Việt Nam hiện nay cũng như ở Cộng hòa dân chủ Đức trước đây.

4. VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
            Trong cuộc cải cách giáo dục hiện nay, nước Đức cũng rất chú ý đến vấn đề đổi mới phương pháp. Vấn đề phương pháp là một vấn đề lớn, phức tạp. Có một thực tế là việc đổi mới hiện nay ở Đức cũng gặp nhiều khó khăn. Lí do cơ bản là phần lớn giáo viên đang đứng lớp hiện nay đều già và sắp đến tuổi nghỉ hưu. Thói quen sư phạm không dễ một sớm một chiều thay đổi. Mặt khác, người giáo viên ở Đức có quyền tự quyết rất lớn. Vấn đề bồi dưỡng giáo viên là vấn đề tự nguyện chứ không bắt buộc. Người giáo viên chịu trách nhiệm  về kết quả dạy học của mình. Nếu giáo viên dạy chất lượng kém, các giáo viên cốt cán cũng chỉ có thể dự giờ, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra những khuyến nghị mà thôi. Không có vấn đề kỉ luật hay khiển trách, càng không có việc kéo dài thời hạn tăng lương. Không có vấn đề thuyên chuyển vì chất lượng dạy kém. Có thể nói rằng việc vận dung đổi mới phương pháp ở CHLB Đức gặp nhiều khó khăn hơn chúng ta.
          Nước ta cũng đang rất chú trọng việc đổi mới phương pháp. Chúng tôi xin giới thiệu  một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học mà TS Nguyễn Văn Cường cùng viết chung với GS Bend May ơ .
1)         Đổi mới việc thiết kế và chuẩn bị bài dạy học
Đổi mới PPDH cần bắt đầu từ việc đổi mới việc thiết kế và chuẩn bị bài dạy học. Trong việc thiết kế bài dạy học (soạn giáo án), cần xác định các mục tiêu dạy học về kiến thức, kỹ năng một cách rõ ràng, cú thể đạt được và có thể kiểm tra, đánh giá được.
Sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint là một phương hướng cải tiến việc thiết kế bài dạy học cũng như hoạt động dạy học. Tuy nhiên ‘giáo án điện tử’   không phải tất cả của việc đổi mới PPDH.
2)         Cải tiến các PPDH truyền thống
Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập luôn là những PP quan trọng trong dạy học. Đổi mới PPDH không có nghĩa là loại bỏ các PPDH truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các PPDH này người GV cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các PPDH truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các PPDH truyền thống cần kết hợp sử dụng các PPDH mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của HS.
3)         Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các PP và hình thức dạy học trong toàn bộ quỏ trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xó hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt  thông qua làm việc nhóm.
4)         Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề (GQVĐ) 
Dạy học GQVĐ (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề. HS được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp HS lĩnh hội tri thức, kỹ năng và PP nhận thức.
Các tình huống cú vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, dạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít chú ý  đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn thì HS vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học GQVĐ, lý luận dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
5)         Vận dụng dạy học theo tình huống
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho HS kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập. 
Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với thực tiễn. Trong nhà trường, các môn học được phân theo các môn khoa học chuyên môn, còn cuộc sống thì luôn diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các môn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho HS năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, liên môn.
Tuy nhiên các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô phỏng lại, chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý thuyết thì HS cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành.     
6)         Vận dụng dạy học định hướng hành động
Dạy học định hướng hành động (DH ĐHHĐ) là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, HS thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận toàn thể. Vận dụng DH ĐHHĐ có ý nghĩa quan trong cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
Dạy học theo dự ỏn là một hình thức điển hình của DH ĐHHĐ, trong đó HS tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm cụ thể công bố. 
7)         Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin trong dạy học
Phương tiện dạy học (PTDH) có vai trò quan trọng trong việc đổi mới PPDH, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các PTDH cần phù hợp với mối quan hệ giữa PTDH và PPDH. Trong khuôn khổ dự án phát triển giáo dục THPT, việc trang bị các PTDH mới cho các trường THPT được tăng cường. Tuy nhiên các PTDH tự tạo của GV luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. 
Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới  là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó HS khám phá tri thức trên mạng một cách có định hướng.
8)         Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
Kỹ thuật dạy học (KTDH) là những cách thức hành động của của GV và HS trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các KTDH là những đơn vị nhỏ nhất của PPDH. Có những KTDH chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng PPDH, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các KTDH phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cỏ”, XYZ, “3 lần 3”...
9)         Tăng cường các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn
Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học. Vỡ vậy bờn cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng các PPDH đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Các PPDH đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn. Ví dụ các PP dạy học trong dạy học kỹ thuật như trình diễn vật phẩm kỹ thuật, làm mẫu thao tác, phân tích sản phẩm kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, lắp ráp, mô hình, các dự án trong dạy học kỹ thuật. Thí nghiệm là một PPDH đặc thù quan trọng của các môn khoa học tự nhiên.
10)Bồi dưỡng phương pháp học tập cho HS
Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hóa, phát huy tính sáng tạo của HS. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, PP làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho HS các PP học tập chung và các PP học tập trong bộ môn.
11) Cải tiến việc kiểm tra đánh giá
Đổi mới PPDH cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá trình dạy học cũng như đổi mới việc kiểm tra và đánh giá thành tích học tập của HS. Cần bồi dưỡng cho HS những kỹ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho HS tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.
Trong đánh giá thành tích học tập của HS không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan.
Tóm lại có rất nhiều phương hướng đổi mới PPDH với những cách tiếp cận khác nhau, trên đây chỉ là một số phương hướng chung. Việc đổi mới PPDH đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý.


5. MỘT SỐ ĐIỀU VỀ GIÁO DỤC CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC CÒN ÍT ĐƯỢC BIẾT
·     Về truyền thống nhà trường
Các trường phổ thông ở Công hòa liên bang Đức mà chúng tôi đến thăm đều không có phòng truyền thống. Do đặc điểm mùa đông lạnh, học sinh không ra ngoài sân cho nên hành lang nhà trường thường rất rộng. Tường hành lang treo những tác phẩm nghệ thuật do học sinh vẽ, học sinh làm. Cũng có tủ kính  để bày những huy chương, những cúp thể thao mà học sinh của nhà trường đoạt được. Ngày nào học sinh cũng nhìn thấy những sản phẩm của mình và bạn mình trên tường trước khi vào lớp học.
Nhà trường chỉ theo dõi số học sinh tốt nghiệp trong kì thi tốt nghiệp của bang. Tuyệt đối không theo dõi bao nhiêu học sinh ra trường đi học đại học, cao đẳng, trung cấp hay đi làm. Điều đơn giản vì người Đức không có thói quen tính thành tích. Vả lại, bất kì học sinh nào sau khi có tấm bằng phổ thông đều có quyền vào học đại học, cho nên không theo dõi cũng phải. Khác với chúng ta, có thi tuyển Đại học cho nên trường càng có nhiều học sinh trúng tuyển thì chứng tỏ trường càng có uy tín chuyên môn.
Khi chúng tôi thăm trường song ngữ J.Ken-nơ-đi, ông hiệu trưởng cũng khá lúng túng với câu hỏi học sinh sau khi tốt nghiệp thành đạt như thế nào. Vị Hiệu trưởng kể mới gặp học sinh cũ làm Tham tán sứ quán ở Ba Lan, có học sinh làm ở Tổ chức thương mại quốc tế, học sinh làm giám đốc công ty ở Mĩ. Nhiều học sinh về thăm lại trường, xin thăm lại chỗ ngồi cũ, thăm lại sản phẩm được trưng bày trên hành lang. Ông tóm lại rằng nhà trường chưa có thói quen theo dõi những học sinh thành đạt.
·     Về việc dạy thêm , học thêm
         Giáo viên Đức không bao giờ dạy thêm trong bất kì trường hợp nào. Họ chỉ dạy phụ đạo học sinh kém trong khuôn khổ nhà trường. Chỉ có những sinh viên các trường Đại học và một số người có trình độ nhưng không phải là giáo viên mới nhận các việc dạy thêm. Có thể dạy theo nhóm hay kèm ở nhà ( gia sư). Số tiền do cha mẹ học sinh thỏa thuận với người dạy.
·     Về các trường tư thục
           Hầu như không có trường dân lập và tư thục trong hệ thống giáo dục quốc dân.  Chỉ có một số ít trường tư thục được thành lập với mục đích từ thiện là chính. Nhà hảo tâm xin mở trường và được nhà nước hỗ trợ về cơ sở vật chất và đầu tư cho mỗi học sinh cũng giống như trường công. Giáo dục công lập được nhà nước đầu tư tốt nhất nên không thể có trường tư thục nào có thể cạnh tranh.
·     Việc đào tạo giáo viên và chế độ đãi ngộ
Tất cả các giáo viên tiểu học, THCS, THPT đều được đào tạo trình độ cử nhân, sau đó đào tạo tiếp thạc sỹ. Sau khi tốt nghiệp thạc sỹ, giao viên phải qua  thời kì làm giáo viên tập sự do Bộ giáo dục của bang quản lí, thời gian là 1,5 năm đến 2 năm ( tùy theo cấp học). Chỉ sau khi thực hiện tốt việc làm giáo viên thực tập, lúc đó  mới được bổ nhiệm làm giáo viên chính thức. Hình thức đào tạo giáo viên là  học lấy tín chỉ. Cử nhân phải có 180 tín chỉ, sau đó là thạc sỹ với 90 tín chỉ. Chỉ có 5% sinh viên ra trường đúng thời gian đào tạo trở thành thạc sĩ, đối với bậc cử nhân thì có 50% sinh viên tốt nghiệp đúng thời gian đăng kí. Vì đào tạo giáo viên dạy 2 môn cho nên nhiều sinh viên không thể hoàn thành các tín chỉ đúng thời gian.
          Giáo viên của Đức được coi là công chức nhà nước và được trả lương cao vào nhóm hàng đầu của thế giới.
          Không có một giáo viên THPT nào được đào tạo tiến sĩ. Bởi không có vị giáo viên nào lại từ bỏ mức lương khoảng 3000 ơ-rô một tháng để đi làm  luận án tiến sĩ với mức lương dành cho người làm luận án khoảng 1500 ơ-rô một tháng.
          Tuổi nghỉ hưu của nam giáo viên là 65, nữ giáo viên là 60.
·      Việc đạt học vị tiến sĩ, tiến sĩ ha-bin và chức danh giáo sư
         Người nghiên cứu viết luận án, bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án thành công thì được công nhận học vị tiến sĩ. Muốn đạt học vị tiến sĩ ha-bin thì phải viết luận án và bảo vệ luận án. Nhưng cũng có thể đưa ra các công trình nghiên cứu có uy tín  khoa học để được công nhận.
          Chức danh giáo sư gắn liền với trường đại học cụ thể. Người được công nhận chức danh giáo sư của trường thì được hưởng lương giáo sư. Khi trường có ghế giáo sư trống ( do chuyển công tác, do co người mất) thì thông báo tuyển giáo sư trong nước và quốc tế. Các ứng cử viên phải gửi hồ sơ về dự tuyển. Hội đồng cử ra Tiểu ban tuyển chọn gồm 6 người sẽ đọc hồ sơ và chọn ra 6 hồ sơ thích hợp nhất. Sáu ứng cử viên được mời đến trình bày trước hội đồng về các ý tưởng khoa học của mình. Tiểu ban chọn ra 3 người xuất sắc nhất. Sau đó gửi cả 3 hồ sơ này cho 2 vị phản biện độc lập và yêu cầu xếp thứ tự 1,2,3. Nhận được ý kiến của 2 phản biện độc lập, Tiểu ban sẽ xếp thứ tự 1,2,3 theo quan điểm của mình và trình bày lập luận trước Hội đồng. Ba ứng cử viên được trình lên Hội đồng của trường. Bộ giáo dục của bang là người ra quyết định cuối cùng. Người được chọn không nhất thiết phải là người được cấp dưới đề nghị xếp thứ nhất.
          Ngoài giáo sư được chọn, còn có hình thức giáo sư danh dự. Giáo sư danh dự là người cộng tác khoa học với nhà trường mà không hưởng lương, Vì nhà trường không có ghế giáo sư trống, nên Hội đồng công nhận giáo sư danh dự để tỏ sự kính trọng chuyên môn của đồng nghiệp.
          Còn có hình thức giáo sư đặc cách dành cho các nhà nghiên cứu, nhà khoa học có uy tín lớn và giáo sư cùng bổ nhiệm là giáo sư của viện nghiên cứu cùng thỏa thuận với khoa để bổ nhiệm.
          Học hàm giáo sư là học hàm suốt đời, khi chuyển công tác khỏi trường Đại học cũ, khi nhận nhiệm vụ ở cơ quan khác vẫn là giáo sư. Có điều vị giáo sư này sẽ không hưởng lương giáo sư như các đồng nghiệp nữa.
         
                                                          Pốtsđam- Hà Nội 1/2008

In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)