Mùa chim lạc bay về là tập hợp 120 bài thơ của tác giả Trần Đăng Thao, do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành năm 2020. Cái tên Mùa chim lạc bay về dường như đã hé lộ tư tưởng, ý thức công dân và ý thức trách nhiệm của người cầm bút: ”Tôi muốn gửi đến các bạn một thông điệp: Niềm tin sắt đá vào tương lai tươi sáng và sự phồn vinh của giống nòi Lạc Việt”(Lời thưa đầu sách ).
Đọc thơ Trần Đăng Thao, ta có cảm giác, hình như trời sinh ra ông là để làm thi sỹ. Bởi thơ ông rất giàu cảm xúc mà phần lớn là những chân cảm, chân ái nên cứ ngỡ là bồng bột mà vô cùng sâu sắc. Ông viết rất tốc độ, rất thời sự. Ở tuổi thất thập nhưng hầu như ngày nào Đăng Thao Trần(nick name) cũng có thơ đăng trên facebook với không ít câu thơ tài hoa:
- Đoạt hết đất trời , tinh túy hương
Thong dong tạo hóa giữa vô thường
Nụ hoa chúm chím giai nhân tiếu
Đã thấy xuân về giữa tuyết sương
(Chợ hoa ngày áp Tết)
- Một trái thiên tài chưa kịp chín/Đã hoàng hôn trắng trước hừng đông(Bên mộ Hàn Mạc Tử)
- Câu thơ lướt khướt / Ngày theo tháng/ Một khối tình con/ Vấn vít hoài (Thăm mộ Tản Đà)
- Những bản Thái / Mây mù lở tở/ Những bản Mông/ Bám vách đá lên trời (Nghĩa Lộ)
- Thầy giáo trẻ bơi trong huyền thoại/ Sông Đà nghiêng, một nét trăng thanh (Nhớ bác Trần Lê Văn),
Nó chứng tỏ: bút lực thi nhân đang rất dồi dào, bút hồn luôn tươi mới, thi hứng vẫn nồng nàn, thi cảm thật mãnh liệt. Có tuổi rồi mà mắt yêu vẫn không ngừng lấp lánh:
Bảy mươi vẫn còn khỏe
Thi tứ vẫn dồi dào
Mắt yêu còn lấp lánh
(Bạn cũ)
Với linh giác của một nghệ sỹ có trái tim mẫn cảm, ông nhanh chóng phát hiện chất thơ trong cuộc sống và thơ hóa nó một cách dễ dàng. Dường như ông bước chân tới đâu là ở đó có thơ. Trong ông luôn có hai con người: một nhà báo luôn trăn trở về trách nhiệm xã hội của người cầm bút (ông vốn là tổng biên tập báo Giáo dục và Thời đại) và một thi sỹ tài tử thường trực ở trạng thái thăng hoa:
“Một ngàn năm
Một vạn năm
Ai thương ngọn bút
Cho bằng thi nhân”
(Nguyên tiêu)
Có lẽ vì thế, thơ Trần Đăng Thao rất phong phú về nội dung, đa thanh trong giọng điệu. Cảm hứng sử thi rất nổi trội mà cảm hứng thế sự cũng không kém đậm đà. Bên cạnh giọng khẳng định ngợi ca là thái độ phẫn nộ trước cái xấu, cái ác. Bên cạnh nỗi buồn nhân thế là giọng hài hước giễu nhại, tự trào. Ở đó, có hào khí của những áng văn yêu nước đầy nhiệt huyết, có sự cao sang của Đường thi, có cái chân quê của Nguyễn Bính và cả cái ngông của Tú Xương, Tản Đà…
Dĩ nhiên, bao trùm trong Mùa chim lạc bay về là những tình cảm thiêng liêng dành cho Tổ quốc, là tình yêu con người, là niềm tự hào về truyền thống văn hóa lịch sử oai hùng của dân tộc và khát vọng cháy bỏng về một thế giới hòa bình, một đất nước phồn vinh, ấm no hạnh phúc. Còn âm hưởng chủ đạo của tập thơ thuộc về những bài chính luận mang đậm dấu ấn sử thi :
Ơi chim Lạc
Ơi hồn thiêng đất Việt
Nghe dòng chảy 4000 năm thao thiết
Trong mạch ngầm nhân loại hôm nay
(Ngã ba Hạc )
- Ngàn vạn người Theo cô Ba Định
Mỏ Cày ơi! Chết cũng vùng lên!
Theo những chiếc khăn rằn đẫm máu
Giành tự do khí thế xung thiên
(Thăm nhà lưu niệm cô Ba Định )
Điều thú vị là, những vấn đề sử thi (và cả những vấn đề thế sự) thường được nhà thơ thể hiện một cách rất trữ tình, trong những câu thơ mềm như lụa vừa làm rung động trái tim vừa hàm ngậm những triết lý sâu sắc:
Lửng lơ
Mây quấn đầu non
Ta về thăm
Thuở trời tròn đất vuông
Thung mờ cổ tích , sương buông
Cây đời ,
Hiểu lẽ vô thường mà xanh
(Tháng ba lên đền Hùng)
- Hỡi dòng sông sinh tử
Chảy về nẻo luân hồi
Xót lòng ngày vĩnh biệt
Biết bao giờ cho nguôi?
(Tăng ơi).
Thơ ông có lửa và có khả năng truyền cảm hứng lớn tới bạn đọc, đánh thức ở họ tình yêu Tổ quốc, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm công dân:
Ơi con cháu của vua Hùng Thần Thánh
Hãy nhớ mình là dân nước Văn Lang….
Nổi trống lên!
Nghìn mường vạn bản
Từ Trường sa
Tới đỉnh Trường Sơn
Biển Đông cuộn sóng ngày dâng Tổ
Nước non này
Gấm vóc đẹp tươi hơn
(Thơ dâng ngày giỗ Tổ)
- Tự hào Việt Nam
Sừng sừng trời Đại Việt
Giữa văn minh sông Hồng
(Gốm Chu Đậu ).
Ý thức rất rõ về trách nhiệm của người cầm bút, ông luôn đặt ra những câu hỏi lớn về tương lai đất nước :
Trời cho Việt tộc nhiều báu vật
Có giữ được không/ hỡi cháu con ?
(Trưa ở Cúc Phương)
Và cả những vấn đề cấp bách có tính chất toàn cầu, liên quan tới sự sống còn của nhân loại như: biến đổi khí hậu, đại dịch hoành hành, ô nhiễm môi trường, chiến tranh và nhất là bệnh thực dụng đến từng centimet đang hàng ngày hàng giờ lên ngôi. Không ảo tưởng, ông luôn cùng bạn đọc đối diện với sự thật trần trụi và lên tiếng cảnh báo con người :
- Đừng ảo tưởng/ Lên cung trăng thì sống/ Cung trăng ư? / Phóng xạ nhiễm lâu rồi.(Truyện ở Malayxia)
- Trái đất của chúng ta/ Liệu có phải/ là ngôi nhà hạnh phúc ? (Vô nghiệm)
Với cái nhìn sắc nhọn của một nhà báo nên thơ Trần Đăng Thao có tính thời sự cao . Như một chiếc ra đa thính nhạy, ông luôn phát hiện kịp thời và đưa vào thơ mình những vấn đề còn tươi mới vừa xảy ra trong cuộc sống thời 4.0: một người bạn thơ vừa ra đi vì một căn bệnh ung thư quái ác , một chiến sỹ đặc công vừa nằm xuống, mùa đại dịch covid vừa bùng phát, nạn lụt lội vừa xảy ra ở Hà Giang. : Thương bảy vùng biên ải/ sao cay cực hỡi trời? (Lụt ở Hà Giang)…
Ông đặc biệt nhạy cảm với những vấn đề thế sự, nhất là những vấn đề hậu chiến (Lòng mẹ, Người thương binh, Người hát rong) và những chớ trêu của cõi người khi mà Những dối lừa/Bay lả tả giữa đời mê (Vô nghiệm ) . Ông đặc biệt cảm thương với những ai yếu thế, thiệt thòi, những mảnh đời bất hạnh, cô đơn, buồn tủi : Muốn chết không chết được/ Vật vờ như cỏ cây(Bà cụ người Mông); đồng thời cũng luôn trăn trở làm thế nào để xã hội phát triển công bằng dân chủ văn minh, đất nước hòa bình hạnh phúc ấm no cho đàn chim lạc mãi bay về:
Sự đời muôn mối bòng bong/Sự thơ?/ Sự thế?/Sự lòng?/Sự sinh… (Gửi Hoàng đại ca).
Ngoài hai cảm hứng sử thi và cảm hứng thế sự, mảng thơ có tính chất trào phúng, khôi hài của ông cũng khá đặc sắc. Có tiếng cười nhằm phê phán những kẻ vô nhân tính (Khúc đồng dao ). Có tiếng cười nhằm vào những thói xấu “đáng yêu” của cánh bạn thơ: một ông thi sĩ nửa mùa nhưng mê thơ thái quá ( Chuyện ông anh), một ông bạn thơ có thói phong tình (Dặn một ông anh), hoặc chỉ là đùa vui tếu táo cùng bạn bè (Gửi bác Quýnh, Gửi hai cụ đốc, Gửi Trần Thi nhân…). Và nhiều khi nhà thơ lại tự cười mình một cách hài hước, hóm hỉnh : Em giờ kiêng món thịt gà/Cũng như hai bác/ Giờ bà kiêng ông/Xót thay/ Phận cải lên ngồng/ Trả xong nợ đất mình không còn gì (Đùa hai bác). Rồi lại tự cười cái nghèo, cái sự ngu ngơ trên mây dưới gió “dễ thương “ của kẻ làm thơ vô tích sự:
- Tôi hay mắc bệnh tiên khồng
Đi đâu bà nhớ mấy đồng xùy ra
- Lạ gì thơ thẩn nhà anh
Có ôm cột điện
Cũng thành em yêu
(Đùa vợ)
Thơ Trần Đăng Thao giàu cảm xúc bởi ông là kẻ nặng tình. Thơ vốn là tiếng nói tình cảm song cảm xúc nơi ông thường cái gì cũng quá một chút nên trong thơ ông tình yêu, niềm thương, nỗi nhớ cứ giăng mắc hoài khắp nẻo : Nhớ Ý Yên, nhớ Trần Lê văn, nhớ nước Nga, nhớ con gái nhà văn, nhớ nhã Nam, nhớ Kon Tum, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ em, nhớ chị, nhớ bạn, nhớ giáo sư Hoàng Tụy, nhớ Vũ Từ Trang…
Là một nhà báo có năng khiếu thi ca, có vốn văn hóa sâu và rộng lại nắm rất vững kỹ thuật làm thơ, Trần Đăng Thao bao giờ cũng có cách giật tít ngắn gọn, súc tích, mà vẫn rất thơ (Thơ, Về Thi, Tăng ơi!). Cách vào đề rất tự nhiên: Xuân này mẹ đã 84/ Con nhìn dáng mẹ hình như hơi gầy (Thơ dâng mẹ); Ô cái chợ Xuân Hòa(Xuân Hòa); Ô kìa ! Trăng muộn đã ngang đầu/Ta nhớ cô mình nhớ đã lâu(Lại một đêm trăng)
Cái kết trong thơ ông thường là kết mở, nhẹ nhàng tạo cảm giác hứng thú cho người đọc : Ba nén hương thơm Con thắp/ Cha về / Thượng hưởng/ Thưa cha ! (Dâng cha);
Thung thăng ba chén rượu/Thơ phú một vài đôi(Hoa kiểng); Những đỉnh núi cả triệu năm tuyết phủ/ Thành La Sa/ Lấm chấm vạn vì sao(Qua Thành Đô)
Ông có khả năng huy động tư duy thơ, kết hợp với sự biến ảo của chữ và trường liên tưởng tinh tế rộng về không gian và sâu về chiều kích văn hóa nên câu thơ của ông luôn giàu sáng tạo:
- Hạ chín trong lòng trái chín/ Hương thơm lựng cả trời xuân (Dâng cha)
- Trăng rắc vàng trên từng chóp núi/ Muôn ngàn ô áo bén duyên nhau! (Về miền Quan Họ )
- Lâu rồi không lên Tam Đảo/ Trời mây, vẫn cứ trời mây/ Mà nắng vẫn vàng như nắng/ Mà thu vẫn biếc trong cây( Nhìn về Tam Đảo)
Ông là người thông thạo nhiều thể loại thơ cổ điển phương Đông (5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng của Trung Hoa) và các thể thơ dân tộc, đặc biệt là lục bát. Điều đáng nói là thi sỹ họ Trần rất có ý thức đổi mới thơ truyền thống theo hướng dân tộc mà hiện đại. Với những thể Đường thi, một mặt ông tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc ( vần, gieo vần, đối, luật)và thi pháp của thơ cổ điển, mặt khác ông lại chủ trương việt hóa chúng một cách sáng tạo sao cho vừa chuyển tải những nội dung thuần Việt vừa phù hợp tâm lý và cách biểu đạt của dân tộc mình theo xu hướng cách tân :
- Anh về mẹ bảo con Xoan nó
Qua cữ giêng hai cũng lớn rồi
Mẹ bấm tết này thì 19
Anh vừa hai mốt
Đẹp duyên đôi
(Nhớ Hoàng Cầm)
- Bóng ai khuất vào lối nhỏ
Sau làn mây trắng nõn như…
(Nhìn về Tam Đảo)
Với thể lục bát, ông có những phá cách hết sức linh hoạt, uyển chuyển :
- Quê mình
Là đất Tam nguyên
Hơn đời
Cái vạt đồng chiêm ao bèo
Từ trong cái đói cái nghèo
Mẹ cha nuốt lệ
Để giao hạt vàng
(Em gái )
Chất liệu dân gian được sử dụng đắc địa nên những câu lục bát của ông thường mềm mại và thấm đẫm hồn dân tộc:
-Yêu em năm đợi mười chờ
Cánh cò chớp trắng bên bờ ca dao (Nguyên tiêu)
-Mỏng manh là cái lưới tình
Mà sao đổ quán xiêu đình như chơi
(Gửi Vũ thi nhân).
Ngôn ngữ trong thơ Trần Đăng Thao là sự gặp gỡ giữa ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ nôm na của dân gian: Ơi hai thằng cháu ngoại/ Ông yêu quý nhất nhà/ Đi đâu ông cũng gọi / Ơi thằng Tô thằng Khoa(Viết cho hai cháu).
Thỉnh thoảng xen vào những tiếng láy( gỉ gì gi, đẩu đầu đâu, xửa xừa xưa), tiếng đệm làm cho mỗi con chữ không bị xẹp lép mà căng căng phồng sức sống và thật dễ thương: Nhớ nhau chỉ có mấy lời/ Xứ Đoài mây trắng / Vũ ơi! Vũ hè!
Ở thơ ông cũng không thiếu những từ mới lạ: mây mẩy, lở tở, lướt khướt, phì phà, thập thững…”Ngồi bắt chân chữ ngũ/ Thở khói bay phì phà (Người đánh xe thổ mộ)
Sinh ra trong một gia đình cha mẹ yêu thơ văn, ở một vùng quê nghèo nhưng lại có rất nhiều người biết làm thơ , tình yêu thơ ca đã ngấm vào ông từ rất sớm. Cách nhà ông trong bán kính chừng 10 km có đến 5 văn sỹ nổi tiếng : Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, cụ Tú thành Nam Trần Tế Xương , nhà thơ chân quê Nguyễn Bính, Nhà văn đất Đại Hoàng Nam Cao, nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Làng Họ nhỏ bé bên đường quốc lộ 21 của ông hiện có 3 người là Hội viên hội nhà văn Việt Nam.
Là người ham học và cầu thị, lại có điều kiện sang Trung Quốc , sang Nga học tập, làm việc, ông đã nỗ lực chiếm lĩnh kiến thức rồi trở thành một nhà báo, một dịch giả, một nhà thơ có chân tài biết chơi Violong, biết viết thư pháp đẹp.
Ở độ tuổi 70, thơ ông đang độ chín và hứa hẹn những thành công mới.