“SAU NGHÌN NĂM LỬA ĐẠN, LẠI HÙNG VƯƠNG”
Tùy bút của ĐỨC DŨNG
Thơ về Đền Hùng, về thời đại Hùng Vương, dù thơ bằng chữ Hán, chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ, dù là của các tác giả có danh hay khuyết danh, có dễ phải ví như “trăm hoa đua nở”. Nhưng tôi vẫn tâm đắc với bài “Sau nghìn năm lửa đạn, lại Hùng Vương” của Chế Lan Viên trong tập “Những bài thơ đánh giặc” xuất bản năm 1972 làm tựa đề cho bài viết, nhân dịp mỗi con dân nước Việt thành kính tri ân công đức tổ tiên.
Trong điều kiện và hoàn cảnh cả nước đang có chiến tranh ác liệt ấy, nhà thơ vẫn lạc quan, phơi phới nói hộ tiếng lòng cùng dân tộc “… Càng bão lửa điên cuồng, ta càng hồi sinh dậy/Ta biết ơn cánh chim Lạc đã chọn cho ta bờ biển ấy/Trăm trứng Âu Cơ hết lượt này lượt khác nở ra trăm lứa anh hùng/Những anh hùng về sau càng vóc dáng lớn hơn các anh hùng trước…”. Và phải chăng, ta thắng hết giặc ngoại xâm này đến các đế quốc sừng sỏ, siêu cường khác, ngoài sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, ý chí độc lập tự do và khát vọng hòa bình, công lý thì, còn một sức mạnh siêu hình nữa chỉ có ở người Việt: Ấy là sức mạnh tâm linh. Bởi thế, không phải ngẫu nhiên mà Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lại trở thành Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Từ bao đời nay, nó đã trở thành bản sắc, thành đạo lý truyền thống của người Việt Nam, của “trăm lứa anh hùng” từ “trăm trứng Âu Cơ” kế tiếp từ đời này sang đời khác; thể hiện lòng biết ơn của các thế hệ con cháu với công đức tổ tiên trong hành trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
1. Giờ đây, ngày giỗ các Vua Hùng và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương quy mô tổ chức không chỉ ở những năm lẻ 5, năm khác (do Tỉnh Phú Thọ tổ chức, Chủ tịch UBND tỉnh làm Chủ lễ); năm tròn (tổ chức cấp quốc gia do Chủ tịch nước là Chủ lễ dâng hương) được diễn ra trên mảnh đất cội nguồn dân tộc là Phú Thọ mà lan rộng ra cả nước, trở thành một nghi lễ quốc gia, dân tộc. Di sản Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, ngoài Phú Thọ có 326 di tích, là chủ đạo thì cả nước với 1.417 di tích thờ Hùng Vương và liên quan đến thời đại Hùng Vương. Hiện nay, nhiều di tích thờ cúng Hùng Vương đang tiếp tục được tôn tạo hoặc xây dựng mới. Những thực thể ấy đã tạo nên một không gian Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương như một vầng hồi quang của lịch sử. Nó có sức sống, sức sáng tạo văn hóa và sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng, kết thành ý thức “nguồn cội”, nghĩa “đồng bào” và trở thành yếu tố nội lực tạo thành sức mạnh dân tộc ta trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Đã có một thời, một số thế lực thù địch, ngoại bang xuyên tạc, bóp méo lịch sử dân tộc, rằng thời đại Hùng Vương là không có thật, khiến các con Lạc cháu Hồng nao núng và nhân loại hoài nghi. Thật tiếc thay, thời đại Hùng Vương có từ buổi bình minh dựng nước nhưng cách xa ta đến nay đã mấy ngàn năm. Đã vậy, đất nước ta còn bị các triều đại phương Bắc thống trị tới hơn nghìn năm. Chúng muốn bưng bít lịch sử, xóa mọi dấu vết của thời đại Hùng Vương. Nhưng Chế Lan Viên vẫn dùng thơ ca để “bóc trần” với “hơn nghìn năm lửa đạn, lại Hùng Vương” đó sao? Ngành Sử học và công tác Khảo cổ học ngày càng phát triển đã tìm ra những di tích thuộc giai đoạn đồng thau, tương ứng với các thời dựng nước của các Vua Hùng. Các di tích khảo cổ được phát hiện xung quanh vùng phụ cận Đền Hùng như Thành phố Việt Trì, huyện Lâm Thao, huyện Phù Ninh…, khai quật được những hiện vật có giá trị, đặc biệt là trống đồng. Và chẳng ở đâu xa, những hiện vật thuộc thời đại Hùng Vương đang được trưng bày ở Bảo tàng Hùng Vương, Bảo tàng tỉnh Phú Thọ và Bảo tàng lịch sử Việt Nam càng chứng minh: Thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử. Không có thật, sao Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương cùng Hát Xoan Phú Thọ được UNESCO công nhận đã nhiều năm nay, thực sự có sức sống lâu bền, lan tỏa trong cộng đồng, xứng đáng là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại?
2. Trước ngày khai Hội và trước thềm giỗ Tổ Hùng Vương, tôi lững thững trên sân hành lễ của Khu Di tích Lịch sử (DTLS) Đền Hùng dưới chân Nghĩa Lĩnh rộng dài, tít tắp như những đường băng có nắng gió thênh thang. Chợt âm hưởng thơ của Nguyễn Đức Mậu dìu dặt, vọng về “… Trong Đền Hùng tĩnh lặng tôi nghe/tiếng giã gạo nhịp chày rung núi/Thưở cây lúa hóa thân từ cỏ dại/Bánh chưng bánh dày như trời đất đầy vơi…”(Khúc hát cội nguồn) . Khu DTLS Đền Hùng hôm nay, cảnh quan và diện mạo đã được thay đổi căn bản; không như thời diểm Bác Hồ nói chuyện với các chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong (đầu tháng 10/1954) khi về tiếp quản Thủ đô mà Người căn dặn “ Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; cũng không như thời điểm Chế Lan Viên sáng tác bài thơ “Sau nghìn năm lửa đạn, lại Hùng Vương” (năm 1972) – quần thể Khu di tích gồm Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ, Đền Giếng, Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ, Đền thờ Lạc Long Quân, Lăng Hùng Vương cùng hệ thống sân bãi, hạ tầng và các loài cây quý hiếm được trồng mới… đã tạo thành một không gian tâm linh trang nghiêm, hiện đại, sẵn sàng phục vụ, đáp ứng đồng bào và du khách quốc tế về thăm viếng. Là ngươi làm báo, từng có nhiều năm, từng giai đoạn, tôi vẫn tác nghiệp về giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng và cảm nhận, từ đầu tư trùng tu các di tích, cảnh quan tới việc cải tiến đổi mới trong khâu tổ chức giỗ Tổ, cung cách quản lý, phục vụ của cán bộ nhân viên Khu di tích và tỉnh Phú Thọ ngày càng rõ nét, tạo được sự an tâm, hài lòng cho du khách trong và ngoài nước.
Thi gói bánh chưng, bánh dày tại lễ hội
Bước đột phá trong khâu đầu tư xây dựng, tu bổ Khu di tích bắt đầu từ “Dự án tổng thể Khu DTLS Đền Hùng” được Chính phủ phê duyệt năm 1994, tiếp sau đó được Chính phủ phê duyệt “ Quy hoạch phát triển Khu DTLS Đền Hùng đến năm 2015”. Nhưng chỉ tính đến Quốc lễ - giỗ Tổ Hùng Vương năm 2010, diện mạo Khu di tích đã thay đổi căn bản, xứng đáng là Di sản Văn hóa thế giới. Tỉnh Phú Thọ đã huy động kinh phí từ các nguồn vốn , với trên 700 tỉ đồng, đầu tư xây dựng, tu bổ nhiều công trình, đền đài, lăng tẩm, trên cơ sở giữ nguyên các giá trị của di tích gốc nhằm bảo tồn gìn giữ “không gian thiêng”. Không dừng lại ở đó, dự kiến từ nay đến năm 2030, tỉnh sẽ huy động khoảng 4.500 tỉ đồng tiếp tục đầu tư bảo tồn và phát huy các giá trị Khu DTLS Đền Hùng, xứng tầm là Khu di tích quốc gia đặc biệt quan trọng bậc nhất nước ta, đưa khu di tích thành điểm du lịch – văn hóa – tâm linh hấp dẫn và thiêng liêng nhất và đưa Thành phố Việt Trì trở thành Thành phố lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Nam.
3. Cũng do tác nghiệp để phản ánh hoạt động giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng nhiều năm mà tôi có nhiều “duyên nợ” với các đời cán bộ quản lý, CBCNV của Khu di tích, của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch và Sở Thông tin - Truyền thông Phú Thọ. Cứ mỗi dịp chuẩn bị cho giỗ Tổ và lễ hội, các anh, các chị lại chóng mặt cho họp hành, chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc, phối, kết hợp với các cơ quan liên nghành sao cho đồng bộ, ăn khớp. Điện thoại di động luôn trong tình trạng “nóng máy”. Mệt mỏi và căng thẳng bởi sức ép công việc. Nhưng đâu đã hết. Do Đền Hùng là “Đất thiêng” nên từng có những đối tượng chiếm đất xây nhà và các công trình trái phép để kinh doanh. Từng có các doanh nghiệp, đại gia làm ăn thua lỗ, bị phá sản mà lén lút đưa những bùa ngải “yểm” trên Đền Hùng; còn cả Trung tâm Phật giáo nọ thuê người “ém” hàng trăm bức tượng La Hán, lăn lóc, chỏng trơ chừng như “hãm hại” hồn thiêng dân tộc (?!). Còn nữa, có những năm do mưa to bão lớn, đôi ba cây rừng nguyên sinh già cỗi bị quật đổ, làm chắn lối hành hương nên phải cưa chặt. Ấy vậy mà có những “thế lực ngầm” dùng báo chí rêu rao “Đền Hùng…tan hoang trước ngày giỗ Tổ”. Vậy là các anh các chị lại phải căng mình phối hợp với các cơ quan chức năng và liên ngành để xử lý và làm sáng tỏ. Trời Nghĩa Lĩnh lại cao xanh. Và đâu đây có tiếng vỗ cánh của đàn chim Lạc, làm xào xạc lá rừng như tiếng gươm khua. Thế mới biết, nơi mảnh đất cội nguồn dân tộc, vượt qua cả bão tố lẫn “bão lòng”, các anh các chị mới là những người hạnh phúc. Hạnh phúc là vinh dự được phục vụ đồng bào cả nước và du khách quốc tế trong những chuyến hành hương về nguồn vĩ đại, vì một lễ hội cội nguồn dân tộc: Lễ hội của non sông!
*
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Vâng! Dù ai có đi đâu, về đâu, ở phương trời nào của đất nước hoặc nơi bên kia các đại dương xanh…, hãy nhớ về giỗ Tổ hoặc hành hương về đất Tổ. Bạn sẽ được tắm mình trong các sắc màu rực rỡ của các lễ hội; sẽ được hóa thân vào các trò chơi, diễn xướng dân gian; sẽ được bay bổng cùng những điệu Hát Xoan mê đắm lòng người; sẽ nôn nao trong âm vang tiếng cồng chiêng làm xao động núi rừng Nghĩa Lĩnh như hồn dân tộc và chỉ cần nghe “Tiếng trống đồng” qua tiếng lòng của Lâm Thị Mỹ Dạ, cũng đủ nhận biết “Bao nhiêu thời đạiqua rồi/Chỉ còn vọng giữa đất trời tiếng ngân”.
Sau hơn bốn mươi năm miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước non ta liền một dải, từ cái buổi “Bác Hồ ơi toàn thắng về ta”, khung cảnh thanh bình và công cuộc từ tái thiết đất nước đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày một lên sắc lên hương, phải chăng được bắt nguồn từ “Khúc hát cội nguồn”? Khúc hát ấy là của “trăm lứa anh hùng” được nở hết lượt này lượt khác từ bọc trăm trứng Âu Cơ đến hôm nay. Khúc hát hào sảng ấy còn là niềm kiêu hãnh, là bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Nó được cắt nghĩa một cách đơn giản nhưng bất biến và vĩnh cửu, rằng: “Đất nước không gì, không ai tiêu diệt nổi
Sau nghìn năm lửa đạn, lại Hùng Vương”!