bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 0855890003

CÁM ƠN ANH ĐỨC BÌNH CỘNG TÁC!CHÚC ANH VUI KHỎE!

 

ĐỨC BÌNH

Xin cám ơn BAN BT trang TÁC PHẨM VÀ BẠN ĐỌC !

 

VŨ NHO 085 589 0003

Tôi không xem chương trình VUA TIẾNG VIỆT. Cứ theo những gì bác Đinh Y Văn tường thuật thì đích thị là TRÒ CHƠI Đoán từ. Người nhìn từ trong Từ Điển, nói "chữ" đầu của từ, rồi nói "chữ" sau. Người kia...

 

Đinh Y Văn

Trân trọng cảm ơn Tổng biên tập đã dành sự quan tâm đến bố con cụ Đinh Y Văn!

 

Đinh Y Văn

Xin có lời thưa lại, hình như cụ ĐYV bị quy oan là “lơ mơ” ?! Tên chính thức vòng 2 chương trình Vua tiếng Việt là GIẢI NGHĨA, không phải là ĐOÁN TỪ bác ạ.

 

vũ nho 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ BÁO, NHÀ NGHIÊN CỨU NGHIÊM THỊ HẰNG!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 30
Trong ngày: 241
Trong tuần: 1504
Lượt truy cập: 775096

TRẦM TÍCH HOÀNG TRẦN CƯƠNG

HOÀNG TRẦN CƯƠNG – NHỮNG VỈA THƠ TRẦM TÍCH

 

          Đọc Hoàng Trần Cương – Thơ và trường ca, nxb Hội nhà văn, 2014

 

                                                             Vũ Nho

 

Một tuyển tập sớm thơ và Trường ca của Hoàng Trần Cương gần 500 trang in khổ 14,5 x 20,5. Cuối tập có phụ lục 26 bài của các nhà nghiên cứu, phê bình và bạn thơ viết về thơ của tác giả. Không phải nhà thơ nào cũng có được con số ấn tượng như vậy. Và tôi tin với những vỉa thơ trầm tích của nhà thơ  họ Hoàng, còn nhiều chỗ cho  những người nghiên cứu phê bình khai thác  lâu dài trong hiện tại và tương lai.

Vài lần tiếp xúc với Hoàng Trần Cương, thật chẳng tìm thấy dấu hiệu thi nhân nào ở con người này. Hình hài thì gân guốc, có nét khắc khổ, phong trần của người thợ bốc vác.  Anh đã chẳng hề điểm tô chút son phấn nào khi vẽ lại khá chính xác chân dung mình: “ tính khí lại thất thường như nắng/ Mặt gầy choắt mà đồng nghiệp gọi là “thằng mặt nặng” ( Bút kí thơ của một kế toán trưởng). Đây nữa “ Mặt anh buồn như đá/ Ai vứt ra ngoài đồng” ( Đợi). Đúng là “cái mặt không chơi được” trong truyện ngắn Nam Cao. Ngôn ngữ nói năng thì mộc thô, trần trụi, chả có tí hơi hướng văn chương nho nhã nào. Thế nhưng tất cả vẻ thô mộc của hình hài và ngôn ngữ ấy, trầm tích trong đó một sức vóc thơ vạm vỡ ( chữ của Bằng Việt), một hồn thơ đa cảm, ngọt ngào tình người đọng mật, một khí chất xứ Nghệ, khí chất miền Trung “ sắc như cật nứa” cứng cỏi và dữ dội “ nghiêng đêm,… lệch ngày”!

Ấn tượng mạnh mẽ của thơ Hoàng Trần Cương với tôi, trước hết là sự chân thành, trung thực của nhà thơ.  Có thể nói quá đi, có thể dùng mọi thủ pháp, kĩ thuật. Nhưng trước hết, thơ phải chân thành, phải trung thực. Cái chuyện vẽ  mặt mình bằng thơ của anh, cho thấy phẩm chất đó. Và đây, khi ngồi với người cựu chiến binh của đối phương dù bây giờ là bạn nhưng nhà thơ –lính Hoàng Trần Cương không giấu diếm:

          Rồi đột nhiên bỗng im lặng cả hai

          Có lẽ anh đang nghĩ như tôi đấy :

          “- Trong cuộc chiến ở Việt Nam dạo ấy

          May mà mày không gặp tao

          May mà tao không gặp mày!”

                                      Đôi mắt đối phương

( Đọc những câu thơ này, thốt nhiên lại liên tưởng đến người cựu chiến binh Mĩ- Bruce Weigh trong cuốn Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa, khi anh bất ngờ đụng độ người du kích ở Khe Sanh. Nhưng đó là trường hợp cá biệt trong chiến tranh).

Có thể thấy những nét chân dung chân thật của người thơ, từ chuyện “đẻ rơi bên cối giã gạo”, đến chuyện cởi trần, “vác gươm cọng chuối múa khắp làng” làm vỡ vại nhút thức ăn cất trữ cả nhà trong mùa lụt, hay chuyện đói khát của một nhà, nhưng cũng là cả một vùng quê, cả nước thời khốn khó đầy ấn tượng:

    Tảng cháy cậy đi rồi/ Còn hằn vết móng tay/Cày lên/ Sưng cả đáy nồi

                   Trầm tích- Nguồn cội

Hoàng Trần Cương mang tính cách rắn rỏi, thẳng thắn, rạch ròi của người xứ Nghệ. Có phải thế chăng mà thơ không bóng bẩy, không đèm đẹp, không làm duyên. Và tính cách cũng thế, mạnh mẽ, dứt khoát “ Đã chơi chơi hết mình/ Đã làm làm kiệt sức/ Thẳng thắn và đẫm tình” ( Trầm tích – Cá gỗ). Đằng sau cái vẻ cứng cỏi, ngang tàng ấy lại là một tâm hồn đa cảm, yếu đuối, và đầy  nỗi buồn, cô đơn :  Có một chiều ngoảnh lại/ Cô đơn đứng chật nhà ( Nỗi niềm); Ngang qua em có thấy/ Nỗi buồn còn run cây ( Vô tình);  Vết đi của thời gian xếp nỗi buồn xạm trán ( Cơn mưa không tạnh); Có những chiều mưa xối/ Mặt bợt như bã chè ( Hương chè Phú Thọ); Có những ngày cực nhọc/ Ngực ta hóa than hồng/ Nỗi buồn lem lém cháy ( Cháy); Anh cắm sào trước dòng sông héo sóng/ Nghe bãi bờ khò  khè dưới chân ( Sang sông);  Cảm lạnh hắt từ trời/ Trái tim tôi chuột rút ( U Minh);  Kí ức đè nhức đêm/ Kỉ niệm niêm cất những mầm măng nhọn hoắt ( Đỉnh Vua)… Buồn nhiều, cô đơn, nhưng Hoàng Trần Cương không chìm lút vào những tình cảm đó. Anh biết “ Lấy buồn làm vui/ Lấy vui để mộng” ( Giao mùa).  Sau  giây phút “ Bợt bạt mặt người trong cơn giông”  là thời gian “ Trăng lại treo mơ mộng trước hiên nhà” ( Dấu vết tháng ngày). Cho nên thơ của anh là phức hợp của buồn lẫn vui, cô đơn và  hòa đồng, yếu mềm và mạnh mẽ, tỉnh táo và mộng mơ,  tinh lọc và thô nhám, cô đúc và phóng khoáng, cụ thể và khái quát,…

          Người ta nói nhiều đến chất Nghệ, chất miền Trung trong thơ  Hoàng Trần Cương.  Một nhà thơ với giọng điệu không thể lẫn, đậm cá tính và đậm màu sắc địa phương. Không phải là dân Nghệ, dân miền Trung không thể nào viết những câu thơ gan ruột về quê hương:

Miền Trung/Tấm lưng trần đen sạm

Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm dăng màn

          …

Miền Trung/Câu ví dặm nằm nghiêng/ Trên nắng và dưới cát

Đến câu hát cũng hai lần sàng lại/ Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm

          …

Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt/Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ

Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ/ Không ai gieo mọc trắng mặt người

                             Trầm tích – Miền trung

 

Đến cả câu hát của người bà  cũng gầy gò, như mới ốm:

          Câu ví dặm gầy nhom thì thào như người mới ốm

          Từ trong cái đãy nâu sồng thắt ngang lưng bà tối tối lại bò ra

                                      Trầm tích – Nguồn cội

Nhà thơ đậm chất Nghệ, đậm chất miền Trung. Điều đó hoàn toàn chính xác. Nhưng ngoài chất Nghệ cứng cỏi, mạnh mẽ, đầy ý chí nghị lực vượt nghèo, trong thơ Hoàng Trần Cương còn đậm chất lính, đậm dấu ấn trận mạc. Anh thú nhận không  giấu diếm:

Bây giờ anh vào tuổi bốn mươi/ Vẫn hốc hác khuôn mặt thời lính trận

                                      Sấp ngửa bàn tay

 Người lính đã vào đời theo cách nhìn của ngành tài chính qua con mắt  kinh doanh:

Con mang sức trai/ Chọi cùng súng đạn/ Mang mạng sống của mình hùn với bao đồng đội/ Kinh doanh trên trận mạc/Giành giật với đạn bom/Phần đất lãi

          …

Con vẫn tung cuộc đời con –chút- vốn – liếng – cuối – cùng- của mẹ lên chặn họng súng thù/ Cùng đồng đội gom từng phân lợi nhuận/ Để gộp vào hôm nay

                             Trầm tích – Vốn và lãi

Những tháng ngày “Đọ sức với quân thù tận rừng sâu núi thẳm”, từng chứng kiến “ ngực bạn tôi máu xối”, từng “ run run vuốt xuôi đôi mắt/ Đồng đội con chưa kịp nhắm”, và đã từng “phơi mình trước mưa bom bão đạn/ Ngót mười năm chọi súng với quân thù” ( Lòng tốt) cho nên người lính ấy biết quý những gì mình có được, biết đau nỗi đau đồng đội “ Khi tuổi xanh các anh thôi thêm tháng thêm ngày”, biết cảm nhận “ cỏ vẫn bạc đầu/ Thương nhớ cắm hoa mờ bia trắng/ Hương trầm thấm xuống mấy tầng sâu” ( Sấp ngửa bàn tay). Và đau buốt trước nỗi đau của người còn sống:

Có người lính mãn thời trai trẻ/ Người yêu/ Giờ đã lấy chồng/ Con búp bê mở mắt tròn xoe/ Suốt ngày khóc trên tay con của người yêu cũ

                                      Trầm tích – Mưa ốc đảo

Chính tâm hồn người lính sống sót sau chiến tranh  ác liệt đã làm thành một vỉa trầm tích quý giá trong thơ của Hoàng Trần Cương.

          Nhân vật trữ tình là chú bé đẻ rơi bên cối gạo, lớn lên trong đói nghèo, vào trận chọi nhau với súng đạn, đối mặt với hiểm nguy, với cái chết là nhân vật chính yếu của trường ca “Trầm tích”. Bên cạnh đó là người bà, người mẹ, những người  anh em, đồng đội, và cả em ( trong chương Thiên nhiên, đầy ám ảnh với mấy dòng thơ : Em thấm vào anh/ Đam mê lịm ngọt/ Như ngải như bùa/ Như bão như giông…Em ngang qua chiều/ Nắng thơm mùi rượu/ Mắt sông/ Môi lửa/ Gió lên đồng). Tôi muốn nói đến nhân vật đặc biệt là nhân vật MẸ. Ngoài những dòng thơ cụ thể đầy xúc động về mẹ mà nhiều người khi viết về “Trầm tích” đã không bỏ qua:

          Treo vội con lên chạn

           Mẹ xắn quần đi giành lại cái sanh đồng sứt quai

          Theo nước lũ nhoai ra ngoài ngõ/ Rồi một tay chắn gió

          Mẹ ngồi nhen lửa dưới mưa

                             Cật tre

          Cái nón mê mẹ đội nửa đời người

          Khi chóp thủng lại trùm lên vại nhút

          …

          Mẹ lật đật trèo lên đò ngang/ Quảy theo con vào chợ

          Gò lưng giữ cho cân đòn gánh/ Chỉ sợ con lật người là đổ mất ngày mai

          …

         Mẹ lúi húi xâu đèn hạt bưởi/ Thổi nùi rơm phù phù cho lửa rạng lên

          Soi mặt chữ để con ngồi học

          …

          Sớm mai kéo sụp nón/ Sấp mặt ngồi cuối chợ

          Nhặt về những đồng xu bạc phếch đất bùn

                             Thóc giống

          Mẹ vén vun cưng nựng nụ cười

           Trên gương mặt thời gian còn rác rưởi

          …

          Mẹ là trầm tích của những gian truân

                             Những viên đá lẻ

Hình ảnh mẹ, tiếng gọi mẹ có mặt trong các chương Nguồn cội, Đất mật, Quặng lửa, Mưa ốc đảo, Hoàng hôn màu cỏ, Bóng đa làng, Địa linh, Cấu trúc làng, Đá đỏ, Giao cảm phù sa, Vốn và lãi, Miền trung. Nghĩa là MẸ có mặt trong 15 trên tổng số 19 chương của bản trường ca. Và có  tới 15 lần tác giả gọi “Mẹ ơi!” trong bản trường ca này. Mẹ là trầm tích của gian truân, của làng quê hoa trái, của bạt ngàn thương mến. Mẹ là điểm tựa tinh thần, là đối tượng để nhà thơ giãi bày  tình cảm, tâm tư . Người Việt gọi “Mẹ ơi!” khi mà vui, buồn, đau khổ hay hạnh phúc ở mức mãnh liệt. Tiếng gọi “ Mẹ ơi!” của tác giả là trong những trường hợp đó. Đồng thời nó còn có chức năng mở chương, mở đoạn để nhân vật trữ tình giãi bày bằng từ “con” đầy tình cảm thân thiết và biết ơn. MẸ là một phần cấu trúc vững chắc của bản trường ca này, và chính MẸ cũng làm cho bản trường ca “Trầm tích” khác biệt với những trường ca khác.

          Có thể nói thơ Hoàng Trần Cương là thơ có giọng điệu, có phong cách riêng ám ảnh. Để có được điều đó, trước hết cường độ cảm xúc phải mãnh liệt, mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên mà các từ ngữ trong thơ của Hoàng Trần Cương  hầu hết đều là những từ ngữ chính xác, sống động, cưa quậy. Nó thể hiện cường độ cảm xúc mạnh của tác giả. Không khó để nhận ra những : Rong róng nước mưa, Nỗi buồn lem lém cháy, Ríu rít nắng ra ràng, Kỉ niệm phăng phăng về bến cũ, Nắng thất thanh, Kỉ niệm trơ xương thất lạc, Nắng quáng quàng, mưa lắp bắp,  Nắng nghiến ngấu ngày, mưa dằn vặt đêm, Tiếng học bài nóng ran xóm nhỏ/ Tiếng gọi đò méo cả bến sông, Mưa xói trắng đỉnh đầu/ Nước chảy đứt đuôi rắn…

Và những hình ảnh thơ của Hoàng Trần Cương cũng vừa lạ, vừa sống động, vừa độc đáo cứ xộc thẳng vào trí não người đọc :

          Bỗng dưng trời đất thâm sì/ Lốc rừng dựng đứng

          Mây đặc trời/ Tối bưng/ Gió chém/ Mưa đâm

                      Trầm tích- Thóc giống

          Cay đắng lắng vào trái ớt lúc còn xanh

          Đất vắt kiệt mình mọng nước múi chanh

                             Trầm tích – Nguồn cội

          Trăng đầu tháng đỏ ngầu

          Như cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi

                             Trầm tích – Thóc giống

          Chiều buông áo mỏng bay ngang phố

          Thoáng bóng em về thơm lá non

                             Hơi ấm ban ngày

          Những con cá ươn trên thúng mẹt chợ quê

          Ton tót nhảy khi nghe hơi tiền mới

                             Bút kí thơ của kế toàn trưởng

Bạn đọc có thể không khó khăn gì tìm thấy các hình ảnh khác trong thơ và trường ca của tác giả.

Giàu từng trải  giàu chiêm nghiệm trong chiến tranh và hòa bình; cảm xúc mãnh liệt, từ ngữ sống động, cựa quậy, hình ảnh độc đáo, những điều đó đã góp phần tạo niên  diện mạo và giọng điệu  riêng của thơ Hoàng Trần Cương. Anh đến với thi đàn có muộn mằn, nhưng tên tuổi anh là một trong những cái tên đáng nhớ của thế hệ thơ với những Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,  Nguyễn Đức Mậu,  Nguyễn Trọng Tạo,  Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa…những nhà thơ áo lính.

 

                                                      Hà Nội, tháng 5/2014

 

 hoa-sen-phat

 

 

 

 

         

 

 

In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)