Vanvn- Do lâm bệnh nặng nhà văn, dịch giả Nguyễn Đăng Bảy đã từ trần hồi 2h30 ngày 14.8.2024 (tức ngày 11.7 năm Giáp Thìn), hưởng thọ 77 tuổi. Lễ nhập quan lúc 6h45 ngày 16.8.2024, lễ viếng từ 7h30 đến 8h45 ngày 16.8.2024 tại Nhà tang lễ Bệnh viện Quân y 103, sau đó đưa đi hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn Vũ ở Văn Điển, Hà Nội và an táng tại Nghĩa trang nhân dân Cự Khối, Gia Lâm, Hà Nội.
Nhà văn, dịch giả Nguyễn Đăng Bảy còn có bút danh Đăng Bẩy, sinh ngày 12.11.1948, quê quán Thổ Khối, Long Biên, Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 2006.
Ông tham gia thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước (N97-P30), làm công nhân cơ giới trồng rừng, du học tại Học viện Kỹ thuật Lâm nghiệp LAT (Liên Xô), kỹ sư thiết kế máy công cụ (Viện IMI). Về sau ông chuyển về làm Báo Văn Nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, từng là Thư ký tòa soạn Báo Văn Nghệ.
Tác phẩm chính của Nguyễn Đăng Bảy đã xuất bản: Ra đi không trở lại (truyện dịch V.Bykov – 1983). Thu trong rừng sồi (tuyển truyện ngắn Liên Xô – 1984). Kẻ Đánh cắp thần linh (truyện ngắn hiện đại Châu Á -1985). Tình yêu khôn lường, (biên soạn – 2008).
Suy nghĩ về nghề văn, ông từng viết: “Văn chương quả là duyên nợ trong trường hợp tôi. Tuy kinh qua nhiều nghề nhưng vì có một bài thơ được in trên Văn Nghệ năm 1968, tôi chuyển sang dịch thuật và làm báo văn chuyên nghiệp đến nay”.
Nhà văn, dịch giả Nguyễn Đăng Bảy đã từ trần hồi 2h30 ngày 14 tháng 8 năm 2024 (tức ngày 11 tháng 7 năm Giáp Thìn) tại Hà Nội, hưởng thọ 77 tuổi.
Hội Nhà văn Việt Nam và Ban Biên tập Vanvn.vn xin chia buồn sâu sắc với gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp của nhà văn, dịch giả Nguyễn Đăng Bảy!
VANVN
TRANG TÁC PHẨM VÀ BẠN ĐỌC XIN CHIA BUỒN VỚI GIA ĐÌNH!
XIN ĐĂNG LẠI MỘT BÀI VIẾT CỦA NHÀ VĂN ĐĂNG BẨY NHƯ MỘT NÉN NHANG TIỄN BIỆT!
HÌNH THÀNH MỘT CỐT CÁCH
(Đọc Thức Hạ của Cao Ngọc Thắng– Nxb Hội Nhà văn, 2011.)
ĐĂNG BẨY
Phàm đã là người yêu thơ, ai chẳng muốn sau khi cất công đọc-thăm-dò, lại còn hứng thú để đọc lại, bất kể tập thơ ấy dày hay mỏng… Với trường hợp Thức Hạ của Cao Ngọc Thắng, tôi tin, nó sẽ được đọc lại không chỉ một lần.
Vì trong một loạt bài mang phong vị đồng quê: Nắng I, Nồm, Gánh nước, Gầu sòng em… ta gặp những câu thơ thân ái, như:
“Đằm thắm ơi, đằm thắm ơi...
Yêu
đằm thắm
Cả cuộc đời
khát khao” (Xa xăm)
Song, đó chỉ là điểm xuyết. Xuyên suốt Thức Hạ là một giọng thơ không vồ vập ồn ào, mà - theo tôi – có những điểm nhấn xứng đáng đi vào bộ nhớ của người đọc và đồng nghiệp.
Về hình tượng
Tác giả mẫn cảm và hào hứng đón nhịp mùa đi: Xuân Hạ Thu Đông trở thành nhân vật trữ tình trong thơ Cao Ngọc Thắng và hiển hiện đậm nét:
“Đến chợ xuân
Tần ngần
Cánh hồng lên phấn” (Ngỡ ngàng)
Hoặc:
“Đầu năm màu nắng khập khừng
Nắng nhoe tan nỗi lừng chừng gió đông” (Nắng I)
Đó quả là những chi tiết thiên nhiên phong phú được chọn lọc hết sức tinh tế.
“Thu chửa qua đông chừng ngấp nghé
Buồn ôm buồn góc phố hè phơi
Lưng cốc bia sẻ chia ngày ngắn
Lá cây vàng từng chiếc buông vơi” (Ngấp nghé)
Và có khi đạt đến độ duyên dáng:
“Chửa dậy mùa
hương cốm
núp lá sen
đợi” (Đợi).
Chỉ một trận Mưa trong phố mà anh khắc họa được cả một vũ trụ:
“Va tường nhà
Rong xuống đất
Trườn vỉa hè
Lênh lang nước
Bong bóng mưa
Lũ nhóc
Nhảy loi choi
Cóc cười khụ khụ”.
Đọc thấy tiếng cóc cười này, ta hiểu, tác giả không thiếu chất hồn nhiên trong trẻo.
Về cung bậc tình cảm
Làm thơ, đương nhiên người nào cũng muốn hé lộ chiều sâu của tâm trạng mình. Cao Ngọc Thắng có khi bâng quơ để “Mùa buông vào tóc” (Nuối tiếc), nhưng nhiều khi anh ký thác nơi bạn đọc những nỗi niềm trắc ẩn từ ký ức và hiện tại, những suy tư, băn khoăn, trăn trở trước cuộc sống.
Phải là người đã đến độ tuổi từng nếm trải những “tháng ba ngày tám” của thời vụ cổ truyền, tác giả mới viết được câu thơ “Bát canh láo nháo/ tháng ba” (Nhớ II).
Đến một vùng Đất nghèo mưa, gặp một hình ảnh, anh lưu lại, không chỉ dừng ở khía cạnh tả thực:
“Những người phụ nữ
nặn đất
không bàn xoay
chân trần
đội nước”
Và ở một bài khác, cũng với cảm xúc hàm ân - tri ân như thế:
“Bờ thửa sống trâu
Đòn xóc hai đầu
Rạ đẫm nước
Bết tóc mai
Bấm ngón – trầy vai
Em gánh – vụ mùa
Chân làng
khói thở” (Gánh mùa)
Ta thấy, cả hai đoạn thơ vừa trích dẫn trên đều dừng ở vần trắc - biểu cảm nỗi nghẹn ngào!
“Bạn với người khốn khổ
Gió dịu dàng
vuốt
mồ hôi” (Gió IV)
“Lật sá cày thấy mây
Nghiêng thảm lúa gió đùa
Cởi áo người nắng cháy” (Và một ngày)
Tôi coi, đó là những bài thơ vừa giàu vốn sống vừa giàu cảm xúc.
Đau đáu những nỗi đời
Ngay ở lời đề từ tập thơ, Cao Ngọc Thắng đã nói trước điều này: muốn sẻ chia cùng người đọc những nỗi đời anh hằng quan tâm chăm chú.
“Thiện ác chia đâu
Gối đầu trang sách”
Anh nhìn thấy cuộc sống quanh mình là một vũ trụ chứa nhiều âu lo.
Âu lo chuyện mùa màng ở cánh đồng quê:
“Hạ đã vơi
nắng còn rạo rực
Lũ tràn về
khuấy loãng xanh thu
Biển trừng
ngầu mắt bão
Rạ bời bời
đồng bãi u u” ... (Hạ III)
Âu lo chuyện môi sinh nơi nhân thế:
“Đại dương
hồng lên
rực lên
Mặt trời chưa mọc
Mặt trời chưa lặn
Màu cát bụi
Màu các sinh linh
Trôi dạt” … (Nhiễm)
Cho nên, từ một trạng thái nội tâm, cả ngoại cảnh cũng vui lây, buồn lây:
“Tình yêu dang dở
Đá lở vòng tay
Đất trườn trầy trượt
Ngật ngưỡng rừng say” (Xâm thực)
Và, Cao Ngọc Thắng có cái nhìn ái ngại trước sự chuyển đổi từ ngoại đến nội thành:
“Có em thôn nữ
Mắt buồn phía điện giăng
Đồng bãi cồn day dứt
Ruộng mật bờ xôi
dùng dằng” (Không nỡ)
Trong Thức Hạ, ta còn gặp những thân phận, những tình huống gợi buồn – nhưng không làm ảnh hưởng đến Cái Đẹp:
“Ngày nắng ấm ai người ngoảnh lại
Chạm heo may sương giá
mủi lòng” (Chạm)
“Góc vườn nhài nở màu hoa
Thật thà trinh trắng xót xa màu mình” (Bâng quơ màu)
“Thiên nhiên mềm mại
Cái đẹp mong manh” (Nhận thức)
Về ngôn ngữ thơ
Được biết, Cao Ngọc Thắng từng làm nhiều công việc khác nhau, khi đi bộ đội, khi dạy địa lý ở trường đại học, khi tìm hiểu về kinh tế, về tư tưởng Hồ Chí Minh, khi hoạt động báo chí, truyền thông; và, đã trình bạn đọc một số tập văn xuôi, nhưng trong sâu thẳm, anh vẫn chăm chút nhiều hơn cả cho thơ. Anh thuộc số người hiếm hoi biết dụng công vào vốn ngôn ngữ riêng và cú pháp riêng để làm nên những bài thơ ngắn và gợi.
“Con đường đẫm nước
Ngọn cỏ vẽ trời đông
Lối mòn nào bằn bặt
Lũ mèo hoang nghịch nát đêm nồng” (Băn khoăn)
“Ngày thường lọt vào hom
Ước mơ qua mắt sàng
Khát vọng xuống nong” (Nhớ IV)
“Cầu vồng em khoe sắc
Tít tắp chân trời xa
Phía ấy mưa vừa tạnh
Nơi anh mây vỡ òa” (Không đề)
Anh dùng nhiều điệp ngữ, một phần do sẵn có, một phần do anh sáng tạo:
- Bật non rau khúc (Nhớ I)
- Bật tiếng chim cu (Hạ IV)
- Ngâu/ tiếng chim cuốc/ chìm/ sông Ngân/ rạch nhớ thương/ sậm sùi/ Chức Nữ
(Ngậm ngùi),
- Ngắn ngày dài đêm/ Gió hanh hao bấc/ Trâu bò trệu trạo/ Chó mèo lươn khươn (Gió III)
- Cây cầu phao nổi lừ đừ/ Con thuyền say khướt ngất ngư trên dòng (Trên sông)
Sau Bẻ gió (Nxb Thanh niên, 2009) và Giao mùa (Nxb Hội Nhà văn, 2010), lần này Cao Ngọc Thắng trình bạn đọc và đồng nghiệp Thức Hạ như muốn khẳng định một chọn lựa: phải hình thành một cốt cách. Việc này đâu phải người làm thơ nào cũng đủ kiên trì để làm và làm được – nhưng nếu không, làm sao tồn tại được trong một trường thơ đầy rẫy những người làm!
Tác giả chẳng đã từng tự nhủ khi đến Quốc Tử Giám và chia sẻ với bạn đọc về chí hướng của mình:
“Lả lơi câu chữ
là thực
là mơ
Miếu Văn
Đâu chấp nhận
thơ hờ” (Đất thiêng)
Hẳn khi khép lại tập thơ thứ ba của Cao Ngọc Thắng, bạn sẽ thấy mình không đến nỗi phí công: đằng sau những bài thơ chấm phá - có khi tưng tửng nữa - là một gam trầm gợi nhiều ngẫm ngợi.
Hà Nội, 29-04-2011
Người gửi / điện thoại