bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

VŨ NHO 085 589 0003

Tôi không xem chương trình VUA TIẾNG VIỆT. Cứ theo những gì bác Đinh Y Văn tường thuật thì đích thị là TRÒ CHƠI Đoán từ. Người nhìn từ trong Từ Điển, nói "chữ" đầu của từ, rồi nói "chữ" sau. Người kia...

 

Đinh Y Văn

Trân trọng cảm ơn Tổng biên tập đã dành sự quan tâm đến bố con cụ Đinh Y Văn!

 

Đinh Y Văn

Xin có lời thưa lại, hình như cụ ĐYV bị quy oan là “lơ mơ” ?! Tên chính thức vòng 2 chương trình Vua tiếng Việt là GIẢI NGHĨA, không phải là ĐOÁN TỪ bác ạ.

 

vũ nho 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TÁC CỦA NHÀ BÁO, NHÀ NGHIÊN CỨU NGHIÊM THỊ HẰNG!

 

nghiêm thị hằng 0948360597

Xin chân thành cảm ơn ban biên tập CLB Văn chương đã đăng bải chia sẻ thông tin về hành trinh tìm dấu tích phàn mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương như mò kim đáy biển

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN SỰ CỘNG TAC NHIỆT TÌNH CỦA NHÀ THƠ LÊ ANH PHONG!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 24
Trong ngày: 74
Trong tuần: 821
Lượt truy cập: 759377

CẢM THỨC THỜI GIAN ( TIẾP THEO VÀ HẾT)

CẢM THỨC THỜI GIAN...

ĐỖ NGỌC YÊN

II.3. Trong số 52 bài thơ mà tôi khảo sát có tới 437 lần Dương Kiều Minh sử dụng các từ/cụm từ chỉ về hoặc liên quan đến thời gian, trung bình mỗi bài có tới hơn 8,4 lần. Có lẽ đây là một kỷ lục độc nhất vô nhị, có thể ghi vào sách Guinness Việt Nam (!?).
Vấn đề ở đây là tại sao người thơ lại quan tâm nhiều đến thời gian như vậy. Và cảm thức thời gian đã chi phối quá trình sáng tạo các thi phẩm của ông, nhất là về khía cạnh thi pháp như thế nào?
Trong số 45 lần nhắc tới thời gian ở bài Nềm vọng niệm, có 37 từ/cụm từ biểu thị thời gian thực/ vật chất, còn lại 8 từ/ cụm từ biểu thị thời gian không có thực/ ảo mà tôi gọi là thời gian tâm lý sáng tạo. Các từ/ cụm từ chỉ thời gian ảo nằm ở các câu thơ:
“hơi lạnh đầy đầy vẻ thu chừng mãn;
rũ lớp bụi thời gian, trở lại;
có lẽ lòng mình đã thời gian bụi phủ;
Ô con thuyền không mui từ bao giờ lặng lẽ;
nhắc mình thời vận;
thời vận;
thời vận;
thời vận”
Trong số các bài thơ mà tôi quan sát, có 312 từ/cụm từ chỉ thời gian thực. Riêng bài Niềm vọng niệm có tới 37 từ/ cụm từ như vậy. Quan sát những câu thơ trên, mọi người dễ dàng có thể nhận ra điều ấy. Đấy là các từ/ cụm từ chỉ hoặc liên quan đến thời gian thực trong bài thơ: đầu hạ, mùng 8 tháng tư, hôm qua, mùa lũ, tuần đông chí, hôm sau, sáu năm, đời người, đồng quê cũ, nhớ tuổi thơ, chiều lạnh, vụ cấy trồng áp Tết, cuối năm, mùa xuân, cuối chiều, giữa mùa xuân, tóc bạc, người xưa, sáng dậy, đón xuân mới tới, đêm, cuối đông, bạn cũ, lối xưa, ban mai, cuối đông, chiều xuống, đêm,...
Tuy nhiên, sự phân chia các từ/ cụm từ chỉ thời gian ra thực và ảo theo cảm nhận cá nhân và hoàn toàn mang tính chất tương đối, vì có những từ/ cụm từ đặt trong văn cảnh này là thực, nhưng nếu đặt vào một văn cảnh khác có thể nó trở thành ảo. Chẳng hạn như cụm từ cuộc đời nếu đi cùng với một đại từ nhân xưng như: tôi, anh, chị, cô, gì, chú, bác, mẹ, cha... thì đấy là một cụm từ chỉ thời gian thực, vì nó có thể xác định được bằng các giác quan thông thường. Còn nếu nó đứng riêng ra thì cuộc đời được xem như một cách nói không xác định về thời gian, mà chỉ có thể cảm thức nó ở dòng chảy tâm lý - ý thức trong quá trình sáng tạo. Nếu đi với một từ cảm như: ối, á, cha... lại chỉ về thái độ không bằng lòng về một điều gì đó của người nói/viết. Chẳng hạn như khi nghe một ai đó chửi thề: Cha cuộc đời! thì cụm từ cuộc đời ở đây lại biểu thị thời gian ảo.
Điều khiến tôi quan tâm ở đây không phải là số lượng từ/ cụm từ chỉ thời gian có tần xuất cao hay thấp và sự phân loại thực hay ảo trong thơ Dương Kiều Minh chính xác đến mức nào. Quan trọng hơn là vì sao ông lại sử dụng nhiều từ/ cụm từ chỉ thời gian như thế nhằm mục đích gì, liệu có gây nhàm chán bởi sự lặp lại? Ở đây không thể nói rằng, nhà thơ thích thì dùng. Rõ ràng có một sự vận động không ngừng bên trong tâm lý sáng tạo - dòng ý thức của ông, nên những từ/ cụm chỉ thời gian luôn ám ảnh chi phối quá trình sáng tạo đến mức Dương Kiều Minh không thể nào cưỡng lại được.
II.4. Quan sát các từ/ cụm từ chỉ thời gian thực ở bài thơ trên, chúng ta không thể nào nhận ra bài thơ được viết vào lúc nào, nếu như không có sự ghi chú từ chủ nhân của nó ở cuối bài. Vì các từ/ cụm từ chỉ một quãng thời gian khá dài và rất khó xác định: đầu hạ, mùng 8 tháng tư, hôm qua, vẻ thu chừng mãn, mùa lũ, tuần đông chí, hôm sau, sáu năm... Tuy các từ/ cụm từ này khá cụ thể, nhưng phía sau những cái cụ thể ấy là một tâm trạng rối bời như canh hẹ của người thơ, đặc biệt khi ông nghĩ và liên tưởng đến những điều muôn thưở của cõi đời, kiếp người. Lúc ấy, những từ/ cụm từ chỉ thời gian thực, cụ thể bỗng dưng trở nên vô nghĩa và tan biến đi đâu mất, chỉ còn lại cảm thức về một dòng thời gian bất định với các từ/ cụm từ như: bụi thời gian, thời gian bụi phủ, từ bao giờ, thời vận,....
Khởi xuất là những đại lượng thời gian thực và kết thúc là đại lượng thời gian ảo. Thậm chí ông đã 4 lần nhắc tới từ thời vận ở cuối bài thơ, một đại lượng thời gian không có khởi đầu, cũng không có kết thúc, vô thủy, vô chung, nhưng nó lại luôn hiện tồn trong tâm thức nhà thơ như một hằng số bất biến. Và quan trọng hơn nó còn tồn tại trong tâm thức của Dương Kiều Minh như một đại lượng xác tín.
III. Cảm thức thời gian ảo/ tâm lý sáng tạo
III.1. Tuy số lượng từ/ cụm từ chỉ thời gian ảo chỉ có 125 so với 312 trong tổng số 437 từ/ cụm từ cùng biểu thị về thời gian. Nhưng điều đáng nói ở đây là tuy sử dụng các từ/ cụm từ chỉ thời gian đậm đặc đến như thế, nhưng người đọc thơ ông vẫn không hề cảm thấy nhàm chán vì sự vô lối của các từ và cụm từ ấy. Ngược lại, càng làm cho người ta đi từ thích thú đến sự ngưỡng vọng thơ ông. Mới mà không lạ hoắc, nhiều mà không trùng lặp, ấy chính là tài năng sử dụng ngôn ngữ và cũng là một trong những đặc trưng thi pháp thơ của Dương Kiều Minh.
Những từ/ cụm từ chỉ thời gian thực, có thể xác định được như: đầu hạ, mùng 8 tháng tư, hôm qua, vẻ thu chừng mãn, mùa lũ, tuần đông chí, hôm sau, sáu năm... và những từ/ cụm từ chỉ thời gian ảo như: bụi thời gian, thời gian bụi phủ, từ bao giờ, thời vận... luôn đan xen lẫn nhau, chứng tỏ tâm thức của người thơ luôn ở trong trạng thái rối nhiễu, dùng dằng, chẳng thể nào vượt thoát được, vì sự dan díu với cuộc đời này. Để rồi cuối cùng thi sĩ đành mượn cách nói của tiền nhân là thời vận để tự giải thoát cho chính mình.
III.2. Trong thơ Dương Kiều Minh cảm thức thời gian được đặc trưng bởi hình tượng mùa. Với 52 bài thơ mà chúng tôi khảo sát có tới 217 lần thi nhân nhắc tới từ/cụm từ mùa, mùa vụ, mùa màng, vẻ thu, hơi xuân, chiều đông... Tính trung bình mỗi bài có tới trên 4,17 lần ông nhắc đến các từ/cụm từ gắn liền với hình tượng này. Các từ/ cụm từ chỉ thời gian khác như: ngày, tháng, năm, sáng, sớm, trưa, chiều, tối, đêm, khuya, thời thơ ấu, thời thơ trẻ, ngày trẻ dại, bước chân trẻ thơ,... cũng được Dương Kiều Minh sử dụng khá phổ biến. Đặc biệt các từ/cụm từ chỉ thời gian ảo như: cõi người, kiếp người, xưa cổ, thời vận, thiên thu... được nhà thơ tinh dùng vào những vị trí hết sức đắc địa:
“... Đêm mênh mông san sát bầu tâm sự
tiếng chim khuya nhắc mình thời vận
thời vận
thời vận
thời vận”...
Trong các mùa của năm, dường như mùa thu có duyên nợ nhất đối với Dương Kiều Minh, nên nó có sức ám ảnh lạ thường. Trong số 52 bài thơ như tôi đã nói, có tới 37 lần tác giả nhắc tới từ/cụm từ chỉ/ liên quan đến mùa thu. Trung bình cứ khoảng 0,7 bài thơ ông lại nhắc đến mùa thu một lần.
Tại sao vậy? Lý giải điều này, theo tôi cần lưu ý những khía cạnh sau:
Thứ nhất, nước ta là nước nông nghiệp, có truyền thống sản xuất, gieo trồng theo mùa vụ. Mùa thu thường gắn với việc thu hoạch lúa, hoa màu của nhà nông. Suốt quãng đời tuổi thơ Dương Kiều Minh gắn với làng quê nghèo trồng lúa của huyện Mê Linh, nên mùa thu đã để lại trong ông nhiều ám ảnh kỷ niệm tuổi ấu thơ tung tăng trên cánh đồng vàng.
Thứ hai, mùa thu là mùa đất trời dần chuyển về những ngày đông cuối năm. Lá xanh dần ngả sang màu vàng, báo hiệu bắt đầu một sự lụi tàn theo quy luật tự nhiên của trời đất. Sang thu tâm lý con người thường chộn rộn hơn, vì thời gian của một năm đã đi qua quá nửa, con người cần phải làm việc gấp gáp mới mong đạt được dự định của mình.
Thứ ba, mùa thu khí trời thường mát mẻ hơn với những cơn mưa rào bất chợt,
hơi thu se lạnh dễ đem đến niềm hứng khởi cho thi nhân sáng tác.
Đối với Dương Kiều Minh, dường như trong ông đã hội đủ được cả ba yếu tố trên, nên đã tạo ra được những thi phẩm da diết và thẳm sâu về mùa thu với đủ các cung bậc, sắc thái, xa gần, sâu rộng khác nhau. Dù cho đôi khi điều ấy có làm cho người đọc cảm giác thơ ông đượm một vẻ buồn mang mác, hắt hiu, nhưng không hề sầu não, bi lụy. Trái lại chính nó càng dễ xoáy sâu vào lòng người.
III.3. Chúng ta hãy xem xét một bài thơ cụ thể về mùa thu, bài Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống sau đây của Dương Kiều Minh được viết vào ngày 24 - 8 - 2011, tức là cách ngày ông ra đi 28 - 3 - 2012, đúng 7 tháng 4 ngày, để thấy khả năng khai triển thi pháp của ông một cách bài bản, nhưng không kém phần táo bạo và đã đem lại hiệu quả khả quan cả về mặt ý tưởng lẫn giá trị thẩm mỹ cho thi phẩm:
“Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống
vươn dậy đồng loạt bông tiểu li lan mùa thu
Cơn mưa đêm để lại vệt nước trên tán lá khóm đại hồng môn
bài ca đuổi theo bước chân trẻ thơ con đường ô tô chạy men đồng bãi
ai như tiếng mẹ gọi ngôi làng khói tỏa xa xa
Mẹ ạ,
con đang trở về bên giấc mơ dịu dàng lanh canh những chiếc chuông nhỏ xíu
bên mùa thu âu yếm chở che
mang mộng tưởng lang bang qua trời xanh đồng rộng
những đám mây thong dong đợi cùng theo với
ta đang trở về giấc mơ ngày trẻ dại
ta đuổi theo hoài giấc mơ ngày trẻ dại những bờ cỏ tươi nồng những cánh đồng sương nước
Một ngày mới dần hiện ra
một ngày mới bắt đầu
Mẹ ạ,
giấc mơ con đã đủ đầy cơn gió lành đồng nội
mương nước ngập tràn cánh đồng đổ ải
những đám mây đã đợi con thênh thang trời rộng
những đám mây đã chở con qua dâu bể cuộc đời
con nhận thấy giấc mơ dịu dàng vừa đậu xuống
đồng loạt vươn bông tiểu li lan
theo bài ca dài bước chân trẻ thơ vang vang đầu thu con đường sương khói.
Ồ, trên tán khóm đại hồng môn còn để lại vệt mưa đêm trước.”
Bài thơ viết về một mùa thu trong giấc mơ dịu dàng, hay nói cách khác đây là một mùa thu vừa thực lại vừa ảo, có những cơn mưa đêm bất chợt để lại những giọt nước trên khóm lá, với những bàn chân trẻ thơ đón chào một ngày mới đang đến. Chính lúc này nhà thơ thấy mình như trở về ngày thơ dại, lon ton những bước chân chạy ùa tìm gặp mẹ nơi chín suối trong tiếng chuông của những bông tiểu li lan nhỏ xíu, khóm đại hồng môn cùng những đám mây lang thang bay về phía cánh đồng nơi mẹ yên nằm.
Thật nhẹ nhàng, không ồn ào, không có những từ, những câu gây cảm giác mạnh, trái lại rất gần gũi thân quen, đặc biệt là đối với những ai đã sinh ra và có quãng đời tuổi thơ gắn bó với vùng quê trung du nghèo, mới cảm nhận hết được nỗi niềm của Dương Kiều Minh khi viết những câu thơ này.
Bài thơ mới và lạ về ý tưởng, cảm quan về con người, cuộc đời và thế giới tự nhiên. Nó là chiếc cầu, kẻ mang trên mình thông điệp nối đôi bờ giữa hai thế giới hư và thực, sống và chết, giữa cái hữu hạn của đời người với cái vô hạn của đất trời, vũ trụ. Và đối với Dương Kiều Minh, dường như chỉ có thơ mới đủ năng lực đảm trách sứ mệnh ấy. Dù vậy, bài thơ đã được thể hiện dưới hình thức ngôn từ hết sức mộc mạc, chân thành, đúng với bản chất của vùng quê nghèo, với tình mẫu tử, nghĩa sinh thành và với cõi vô biên. Điều ấy đã tạo nên một bức tranh quê thật sự hiền hòa, với hình tượng trung tâm là người mẹ thân thương đã quá cố, vừa lung linh huyền ảo, thơ ngây, vừa đủ da diết để níu kéo tâm tưởng người đọc can dự vào mối tình cốt nhục của thi nhân.
Có lẽ, điểm nhấn rõ nhất trong sự vận động của thi tứ là cảm thức về thời gian. Bài thơ chỉ có 26 câu mà Dương Kiều Minh đã 12 lần sử dụng các từ/ cụm từ chỉ thời gian. Như vậy, trung bình cứ hơn 2 câu, ông lại nhắc đến thời gian một lần, mà chủ yếu là thời gian của mùa thu, mùa của sự bắt đầu từ cái hữu hạn chuyển dần sang cái vô hạn của muôn thưở kiếp người.
Tuy nhiên, người đọc lại không hề cảm thấy nhàm chán hay tắc tị, khó hiểu về cái sự có vẻ như cố ý lặp lại quá nhiều về thời gian ấy. Trái lại, nó càng làm cho người đọc cảm thông, chia sẻ với ông, khi mà dường như ông đã cảm thức được thời gian vật chất đối với đời một con người không phải là vô hạn.
Bài thơ với nhiều biểu tượng khá đắt được đặt ở những vị trí đắc địa của nó,
khiến cho sức lay động càng sâu, càng xa mãi vào cõi vô thường. Có thể coi đây là một trong những bài thơ viết về mẹ và mùa thu hay nhất của Dương Kiều Minh nói riêng và của thơ ca Việt đương đại nói chung. Bài thơ đã đạt đến độ chín về cảm xúc, chiều sâu về suy tưởng, lung linh về hình ảnh ngôn từ. Mẹ sinh ra và suốt đời nuôi ta khôn lớn nên người, ai mà chẳng nhớ chẳng thương, nhất là lúc mẹ đã lìa xa cõi đời trần tục này để trở về cõi thiên thu, chẳng bao giờ ta có thể được nhìn thấy mẹ nữa, thì sự nhớ thương ấy còn được nhân lên gấp bội. Nhưng để có thể nói ra được điều ấy bằng một bài thơ như thế, không phải ai cũng làm được như Dương Kiều Minh.
Nhìn từ một góc độ nào đấy, đây có thể coi là lời báo hiếu hay là bài thơ tuyệt mệnh của ông đối với người mẹ quá cố của mình. Chẳng ai có thể nói rằng bài thơ này không đổi mới hay cách tân so với truyền thống thi ca Việt trong thời kỳ đánh Pháp và đánh Mỹ trước đây, cũng như thi ca Việt đương đại, xét trên mọi phương diện.
VI. Thay lời kết
Ý thức về thời gian trong cảm quan quay về với quá khứ kỷ niệm, vượt ra khỏi những ràng buộc của đời sống thường nhật, tiến gần sát đến độ nghiệm sinh thời vận, siêu thoát khỏi cõi phàm trần, đấy chính là sự biến thiên của thời gian tâm lý sáng tạo thường thấy trong nhiều bài thơ của Dương Kiều Minh.
Ông tuyên chiến với đời sống thực tại, vốn đầy rẫy những nhiễu nhương, luôn làm phiền lòng người thơ chân chính và cũng là tuyên chiến với thứ thơ quá dễ dãi, tắc tị, hũ nút vốn được du nhập từ các nhà thơ tượng trưng Pháp cuối thế kỷ XIX, cũng như một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ Mới của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, mà không ít người nhầm tưởng rằng đấy là Thơ cách tân. Cái làm nên phong cách thi pháp thơ Dương Kiều Minh chính là việc ông không bao giờ chối bỏ thực tại, mơ hồ, viển vông và vô cảm với nó. Trái lại ông chấp nhận và dung nạp tất cả vào đời sống tâm tưởng cá nhân, để rồi nhào nặn thành một thực tại khác bằng ngôn ngữ thi ca của riêng mình. Đấy chính là năng lực phóng sinh trong tâm lý sáng tạo ở những tài năng thơ ca đích thực như Dương Kiều Minh.
Thời gian là một thước đo khách quan chia đều cho tất thảy chúng ta. Nhưng với Dương Kiều Minh, thước đo ấy, không chỉ dùng để đo hiệu quả hoạt động sống của con người, mà hơn thế còn để đo chiều sâu của lòng người, cõi đời, cũng tức là để đo tầm vóc tư duy sáng tạo nghệ thuật của chính ông. Thời gian trong mắt ông, thực đấy, mà ảo đấy, hữu hình đấy, mà vô hình đấy, hữu hạn đấy, mà cũng vô hạn đấy. Nếu chỉ căn cứ vào các từ/cụm từ chỉ thời gian đến mức đậm đặc trong các thi phẩm của ông mà bảo Dương Kiều Minh cố chấp, tức là chưa hiểu được ngôn ngữ thơ ông phía sau văn bản. Ngược lại chính sự có vẻ như cố chấp ấy không những giúp ông thỏa nguyện trong cuộc rong ruổi những suy tư sáng tạo thi ca của mình, mà nó còn tạo nên nét khu biệt độc đáo về thi pháp thơ Dương Kiều Minh so với các nhà thơ cùng thời và các thế hệ nhà thơ đi trước, giống như một lực sĩ vắt kiệt sức lực của mình ra để chiến đấu đến cùng cho diễn trình đổi mới thi ca đương đại Việt./.
Hà Nôi, 4/2012
Đ.N.Y
..................
(1) Củi lửa, Dương Kiều Minh, Thơ, Nxb Tác phẩm mới, 1989
(2) Dâng mẹ, Dương Kiều Minh, Thơ, Nxb...,1990
(3) Những thời đại thanh xuân, Dương Kiều Minh, Thơ, Nxb..., 1991
(4) Tựa cửa, Dương Kiều Minh, Thơ, in trong tập Thơ Dương Kiều Minh, Nxb Văn học, 2001
(5) Thơ Dương Kiều Minh, Nxb Văn học, 2001
(6) Tôi ngắm mãi những ngày thu tận, Dương Kiều Minh, Thơ, Nxb Hội nhà văn, 2008
(7) Khúc chuyển mùa, đã in trong Thơ Dương Kiều Minh, Nxb Hội nhà văn, 2011
(8)Thơ Dương Kiều Minh, Nxb Hội nhà văn, 2011
(9) Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống, tên bài thơ của Dương Kiều Minh
(10) Không đề, tên bài thơ của Dương Kiều Minh
(11) Hy vọng, tên bài thơ của Dương Kiều Minh
(12) Thành phố buổi đêm, tên bài thơ của Dương Kiều Minh
(13) Hương Sơn vọng khí, tên bài thơ của Dương Kiều Minh
(14) Niềm vọng niệm, tên bài thơ của Dương Kiều Minh
(15) Những chữ gạch chân và in đứng là của tác giả Đỗ Ngọc Yên nhấn mạnh
…………………..

 anh_chuan_5
 
 

 
 
 

 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Vũ Quần Phương
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
Quản trị Website: Nhà văn, Nghệ sĩ Điện ảnh Cầm Sơn
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003. 3- 0913 269 931
1.Thơ, Phê bình và các thể loại khác:  vunho121@gmail.com
2.Văn xuôi (truyện ngắn, bút ký...)  : soncam52@gmail.com
(Chú ý: Không gửi bài cho cả hai mà chỉ gửi 1 trong 2 địa chỉ)