KỶ NIỆM
VỀ NGƯỜI ANH HÙNG LẤP LỖ CHÂU MAI
BÙI QUANG THANH
NHÀ THƠ BÙI QUANG THANH
Một lần, nhà thơ quân đội - Đại tá Phạm Ngọc
Cảnh muốn làm một chuyến du hành bằng xe
ôm từ thị xã Hà Tĩnh vào cảng Vũng Áng, Đèo Ngang
và đền bà Bích Châu. Anh có ý định đi tìm dấu xưa của
nàng thơ để thêm tư liệu vào bài ký “Nắng nhuộm chân
đèo” mà anh đang viết dở. Tôi là người “lái xe ôm” cho
anh suốt cung đường ấy, cả đi lẫn về. Quốc lộ 1A chạy
qua đoạn bắc thị trấn Cẩm Xuyên, hai bên là những cánh
đồng lúa ngút mắt. Phía tây (sát sườn đồi bên kia dòng
sông Hội) nổi lên một khu Tượng đài, dưới nắng ban mai
chiếu thẳng hướng, phần chữ mạ đỏ loé lên như một ngôi
sao đỏ trên mũ người lính. Ngôi sao kiêu hãnh, lấp lánh
trên thảm lúa rực vàng.
Tôi khoe với anh:- Đó là Đài tưởng niệm anh hùng lấp lỗ châu mai Phan
Đình Giót.- Đâu? Cho tớ dừng lại một lát.
Nheo nheo mắt nhìn ngắm, anh trầm ngâm:- Cậu biết không? Hồi ấy, tại Điện Biên Phủ, Phạm
Ngọc Cảnh này đã gặp anh ấy trong chiến hào.
nam hÀnh
Ký sự
Như chợt nhớ ra cái nợ ban sáng , anh vỗ vai tôi:- Tớ gặp ông Giót thật đấy, gặp hai lần hẳn hoi. Hồi đó
Phạm Ngọc Cảnh này vừa tròn 21 tuổi, ở Đoàn văn nghệ
xung kích thuộc biên chế của Đại đội 14, Trung đoàn 112, - Sao? Anh đã gặp Phan Đình Giót trước khi anh ấy
hy sinh?- Không những đã gặp, đã biết mà tớ còn là người
mang lá thư, có lẽ là cuối cùng của ông Giót gửi cho vợ
ông ấy về quê nữa.
Anh vỗ vai tôi:- Đi tiếp đã. Tính cậu đa cảm lại hay tò mò. Đi xe máy
mải nghe không có lợi. Lúc nào nghỉ tớ kể cho mà nghe.
Người đồng hương của ông Giót ạ.
Ngồi trong một quán “dã chiến” của những người
dân nhạy cảm về thương trường phía đông - nam Vũng
Áng, trong cơn gió lốc vần vũ, những đám mây đen trùm
kín cả vùng cảng với những con tàu, mảnh thuyền chông
chênh, anh em chúng tôi xuýt xoa chờ đợi để thưởng thức
món ghẹ khổng lồ với những chiếc càng to cỡ bắp tay trẻ
con, dài dễ bằng hai gang tay người lớn, được nuôi dự trữ
trong lồng sắt dưới biển. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh chỉ
sang phía bắc Vũng Áng:- Các cậu biết không, tớ đã từng ngủ bên Kỳ Lợi hồi
còn là chú nhóc 14 tuổi.- Anh ở thị xã, hồi nhỏ vào đây làm gì?- Tớ là thiếu sinh quân chống Pháp, vào chi viện cho
mặt trận Bình Trị Thiên. Tớ chỉ đi hát thôi. Và suốt đời
quân ngũ, tớ chỉ hát, diễn kịch và làm thơ... Chính vì vậy
mà trong bài thơ “Năm Tuất mẹ sinh con” của tớ mới có
câu “Vô tích sự thằng con trai mẹ/Găng cổ hát khắp rộng
dài sông bể”.
240 BÙI QUANG THANH
BÙI QUANG THANH
241
Đại đoàn 312. Khi bộ đội ta bao vây Điện Biên, đoàn của
tớ đi đến các đơn vị biểu diễn văn nghệ động viên bộ đội.
Trước trận đánh đồn Him Lam 3 ngày, tớ gặp đơn vị của
anh Giót đang đào chiến hào. Biết cùng đồng hương Hà
Tĩnh, anh Giót hỏi tớ: “Hết chiến trường này chú có về
quê không cho mình gửi lá thư?”. Tớ bảo: “Về thì không
biết được nhưng em đi nhiều, gặp nhiều dân công và cán
bộ trong mình ra, anh cứ viết thư rồi em gửi giúp”. Anh
ấy bảo mình: “Chú đi, lúc nào trở lại ghé đây cho mình
nhờ”. Vòng vo dưới chiến hào, hai ngày sau tớ mới quay
lại chỗ ông ấy. Ông Giót đang đan vòng ngụy trang. Tớ
hỏi: “Anh viết thư chưa?” Anh bảo: “Mình không có giấy,
bút”. Tớ đưa giấy và bút cho ông ấy mà mãi không thấy
ông ấy viết, tớ giục lần nữa thì ông ấy cười: “Khổ! Mình
mà viết được thì còn đợi gì chú nữa. Chú giúp mình”. Rồi
anh đọc cho tôi viết giúp, mộc mạc mấy dòng. Ngày hôm
sau, toàn quân biết Phan Đình Giót hy sinh anh dũng ở
Him Lam.- Thế còn bức thư?- Tớ không trao bức thư ấy cho ai nữa. Nó nằm trong
ba lô theo tớ mãi. Đến cuối năm 1955 tớ về Cẩm Quan đưa
lại lá thư ấy cho vợ ông Giót…
Chúng tôi ngồi lặng nhìn anh - vị Đại tá đi qua hai
cuộc chiến, nổi tiếng vì thơ, vì kịch, vì phim ấy. Đôi mắt
anh nhìn vời vợi ra phía biển đen đang nổi sóng. Trong
ánh mắt ấy, tôi đọc được những kỷ niệm thiêng liêng của
một thời đang trỗi lên thành từng đợt sóng lòng.
Hà Tĩnh, 4/2002
Người gửi / điện thoại