bannemoinhat2-banne3-banne4-banne5-banne6-banne7-bannecuoi
TÁC GIẢ QUEN THUỘC
BÀI VIẾT MỚI
PHẢN HỒI MỚI

Nhà thơ Quang Huệ. ĐT 0855745587

Cám ơn BBT và Giáo sư Tiến sĩ Vũ Nho đã cho đăng bài thơ của tôi.

 

VŨ NHO 085 589 0003

Nhưng hạnh phúc là tình yêu đâu cần ban khenBởi tình yêu, chính nó là phần thưởng.CÁM ƠN R.GAMZATOV & THÁI XUÂN NGUYÊN!

 

VŨ NHO 085 589 0003

Sinh ngã chi sơ, nhĩ VỊ SINH,               生我之初爾未生,                Nhĩ sinh chi hậu, ngã vi huynh.      ...

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN NGUYỄN VĂN THỌ ĐÃ THẦM THÌ VỚI BẠN ĐỌC!

 

VŨ NHO 085 589 0003

MỘT FAN NHIỆT THÀNH CỦA NHÀ THƠ BÀNH PHƯƠNG LAN! CHÚC MỪNG NHÀ THƠ!RẤT NỂ BÀI THƠ BẰNG 5 THỨ TIẾNG!

 

VŨ NHO 085 589 0003

TRÂN TRỌNG CÁM ƠN NGƯỜI CỰU CHIẾN BINH NGUYỄN QUANG TOẢN!ANH ĐÃ VỊN CÂU THƠ ĐỨNG DẬY!CHÚC ANH NHỮNG NGÀY VUI!

 
Xem toàn bộ
Đang truy cập: 18
Trong ngày: 109
Trong tuần: 934
Lượt truy cập: 1075707

LÀNG CÙI DƯỚI CHÂN NÚI CHƯ A THAI

LÀNG CÙI DƯỚI CHÂN NÚI CHƯ-A-THAI
 Bút ký

             BÙI QUANG THANH

bui_quang_thanh


Từ thành phố Pleiku theo Quốc lộ 14 về phía nam
rồi rẽ theo Quốc lộ 25 đi Phú Bổn, đèo Chư Sê mùa
cúc quỳ đang nhuộm vàng hai triền núi, điệp một màu
vàng nắng thu ngây ngất. Đổ đèo là xã Ia Ake thuộc huyện
Ayun Pa của tỉnh Gia Lai, những lũng lúa chín vàng như
màu cúc quỳ, như màu mật ong sầm sẫm ngọt ngào.
Trụ sở xã Ia Ake nằm sát đường quốc lộ, giữa vùng
lũng núi ấy, giữa những xóm buôn có vẻ như đang lên
hương vì cuộc sống mới, lại còn không ít mái lán đơn sơ,
bề bộn nhà nông thời tiền sử. Nhìn qua cũng biết cộng
đồng dân cư nơi đây đa dạng giàu nghèo, đa dạng phong
thái, đa dạng thổ cư, ngụ cư. Rơ Chăm Chiến - cử nhân
luật, kiểm sát viên ở Viện Kiểm sát Gia Lai - người ở xã
này bảo chúng tôi: xã tôi có tới 7 dân tộc anh em chung
sống, trong hơn một vạn dân thì người Kinh gần một nửa,
Bana và Jarai hơn bốn ngàn khẩu, các dân tộc thiểu số ở
phía Bắc như Mường - Tày - Nùng - Thái hai ngàn người.
Chiến là người dân Bana chính gốc, từ khi Viện Kiểm
sát nhân dân tỉnh làm lễ kết nghĩa với xã Ia Ake thì
tuần nào, ngày nào cũng có người của Viện Kiểm sát về

Sau khi tiếp chúng tôi một chầu trà, chủ tịch xã Nguyễn
Văn Tường hỏi Rơ Chăm Chiến: “Bây giờ ý nhà báo muốn
tìm hiểu về vấn đề gì?”. Đã trao đổi với tôi trước, Chiến đề
xuất được gặp Kso Hiên - Bí thư Chi đoàn thôn 3, người
đã vượt qua một chặng đường đời đầy gian khó để trở lại
làm công dân tốt của buôn làng. Hồi trước Kso Hiên nghe
kẻ xấu xúi giục bỏ nhà vượt biên để sang Campuchia, hy
vọng qua Mỹ sống cuộc đời sung sướng. Trèo đèo vượt
dốc, chui lủi luồn rừng chén hết 30 kg gạo cõng trên lưng
thì Hiên đến được… nhà tạm giữ của bộ đội biên phòng
Đăk Lăk. Sau khi được giải thích cặn kẽ âm mưu của kẻ
thù là xúi giục đồng bào kém hiểu biết ra đi để thực hiện
mục đích chống phá nhà nước, phần hiểu ra sự lẽ, phần
ở cùng dân, ăn cùng dân, vui buồn sướng khổ với nhau
để giúp địa phương giữ gìn an ninh chính trị, giúp dân
hiểu biết thêm pháp luật và giải quyết dần những khó
khăn muôn thuở của người dân ở một địa bàn heo hút, lạc
hậu về mọi mặt này. Rơ Chăm Chiến trở thành con thoi
đi về, là mối liên hệ mọi mặt giữa cơ quan Kiểm sát với
địa phương và người của các dân tộc. Khi anh Phan Văn
Sơn, Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh “bàn giao” chúng tôi
cho Chiến, anh chàng Bana điển trai này vui ra mặt. Anh
khoe rằng thung lũng Ayun Pa của anh là nơi có nhiều
cảnh đẹp, nào đèo xanh núi thẳm, nào hồ Ayun Hạ trời
nước mênh mông, nào những dòng kênh được bê tông
hóa như những dòng sông nổi trên mặt ruộng. Anh chàng
còn tán tôi về nhà chắc có thơ hay. Đinh Thu Hường, cô
kỹ sư nông nghiệp vừa ra trường tròn một tháng lần đầu
tiên vào Nam, lần đầu lên Tây Nguyên nhấp nhổm trong
xe, cứ xuýt xoa ngó ra ngoài cửa kính - Hường đang đi
thăm thú để chọn miền đất hứa cho sự nghiệp ươm trồng
của mình.

nhớ vợ thương con, Kso Hiên đã trở về sống trong vòng
tay yêu thương của cộng đồng thôn xã. Anh được cho vay
vốn sản xuất, được động viên khuyến khích cả vật chất
lẫn tinh thần. Bù đắp lại lỗi lầm đã qua, Kso Hiên chăm
chỉ lao động, tâm sự giãi bày những hiểu biết của mình
về “Nhà nước Đề Ga” lưu vong phản động cho bà con các
dân tộc ở đây. Anh được kết nạp vào Đoàn và được bầu
làm Bí thư Chi đoàn trong đại hội vừa rồi.
Chỉ nửa tiếng sau khi đặt vấn đề, một chàng trai đen
gầy, mắt sáng, tóc quăn đã rụt rè đứng trước cửa phòng
Chủ tịch xã. Đi cùng anh là Bí thư Đoàn xã với chiếc áo
màu xanh “thanh niên tình nguyện” còn rất mới. Làm
quen, chụp ảnh chung, chúng tôi về thăm nhà Kso Hiên,
thăm cái cơ ngơi nhỏ bé như vừa mới khai sinh của anh. Lũ
trẻ con ở đâu ra mà nhiều quá. Tôi ngạc nhiên khi sôi lên
từ đất những đứa trẻ đủ cỡ tuổi, tóc tai vàng quắt lại, mặt
mũi bẩn thỉu, áo quần lôi thôi, những đôi mắt đen láy mở
to như ngạc nhiên, tò mò, thích thú. Tất cả đều không che
dấu nổi sự thiếu thốn, khổ sở về vật chất, nhưng những
đôi mắt của chúng mới ngời ngời làm sao. Tôi hỏi cậu Bí
thư Đoàn xã: “Sao các cháu nheo nhóc vậy?”. Khoát một
vòng tay về phía núi Chư A Thai, nơi có những mái tôn,
mái gianh thấp lè tè, dài ngoằng, người bí thư không dấu
nổi vẻ buồn… Tôi chợt nhớ lời anh Phan Văn Sơn nhắc
tôi đến thăm khu vực người cùi ở, có cách gì đó để cộng
đồng giúp đỡ thêm cho họ. Vậy, hóa ra khu vực Kso Hiên
ở chính là quần cư của những người cùi.
Một gốc đa cỡ hai người ôm mọc bơ vơ bên lề đường,
giữa cánh đồng đi về làng cùi. Vài ba chục đứa trẻ leo
ríu rít trên cành, trong lá; nhiều đứa đu đeo ở các cành la
đà, dáng điêu luyện như những chú vượn. Đứa nào cũng
có trên tay một vài nhánh đa trĩu quả chín trắng, mòng

mọng. Quả đa có lẽ là món quả ưa thích duy nhất của lũ
trẻ làng cùi. Nhìn gốc đa to trơn láng, tôi biết đây là sân
chơi của chúng. Ngó bao quát, cả làng cùi hầu như chỉ có
một cây cổ thụ này làm bóng mát hèn chi lũ trẻ quây quần
ở đây đông thế. Con đường đen xám xịt phân bò, phân
heo đã khô vụn hòa lẫn đất cát. Những túp lều kiểu sàn
ván, phía dưới là nơi ở của trâu bò, gia súc. Nếu không có
những đám người lố nhố ngồi trên sàn ván hoặc ló đầu ra
nhìn chúng tôi thì không ai nghĩ đó là nhà ở mà cứ tưởng
là những chuồng trâu bò hoặc heo.
Kso Hiên kéo một người nhỏ bé, đen nhẻm như người
Ấn Độ, dáng vẻ tinh nhanh đến. Đó là trưởng thôn Blay
Măk. Biết có nhà báo đến thăm làng cùi, anh gật đầu đi
trước chúng tôi đến ba “ngôi nhà” gần sát nhau, đều là
lều sàn, gỗ được cưa ra từ những khúc cong quèo, đen
đúa, bóng nhẫy vì mồ hôi, ghép rời rạc làm sân ngồi và
đỡ những bước chân rụt rè, tập tễnh. Một số đàn ông, đàn
bà tò mò nhìn chúng tôi. Mấy người phụ nữ đang giã bột
trên một sàn gỗ chợt dừng tay khi chúng tôi đến. Ai cũng
có nước da đen đúa, mặc váy thổ cẩm cũ, áo xống tuềnh
toàng, dáng bẽn lẽn, rụt rè. Đối diện căn nhà của mấy phụ
nữ đang giã bột là một căn nhà sàn nữa cũng lem nhem
như da thịt những người dân ở đây. Trên cái sàn bằng củi
ấy, một ông già đang nhìn xuống chúng tôi. Ngó kĩ, hóa
ra ông già đang ngóng chứ không phải đang nhìn, bởi hai
mắt lão chẳng còn gì để gọi là mắt nữa. Hai hố sâu đỏ lòm
những máu, gần như không hấp háy được, cứ dõi theo
tiếng nói của những người xung quanh, kiểu của kẻ mù
lòa hóng chuyện. Kso Hiên bảo tôi: “Đây là già làng Đinh
Suân, 80 tuổi rồi”. Cụ Đinh Suân gật gật đầu như xác nhận
lời giới thiệu ấy. Tôi chợt nhìn xuống chân rồi hai tay của
cụ. Hai bàn chân không còn một ngón nào, vết rụng dù đã

rất lâu nhưng vẫn còn chỗ đen chỗ đỏ. Mu chân, bàn chân
như có ai xát gio bếp vào. Hai tay cụ cũng chỉ còn hai cục
xương và da đen thùi lụi. Tôi giật mình kinh hãi. Lần đầu
tiên trong đời tôi tiếp cận một người bệnh phong gần mà
lộ dạng như vậy. Tuy nhiên trước con mắt bà con dân bản,
các cán bộ kiểm sát, cán bộ đoàn thanh niên và đám trẻ ríu
rít tò mò bốn phía, cơn sợ của tôi tan biến, nhường chỗ cho
một ý thức trách nhiệm của một nhà báo, của cộng đồng.
Tôi bước nhanh lên những bậc cầu thang bằng cây gỗ khô
mà không còn màu gỗ, ngoài những chỗ láng bóng bởi
vết mòn của bàn tay người vịn, còn nhiều dấu máu của
bệnh nhân đã khô đen. Vừa ngồi xuống cạnh già Đinh
Suân thì hai người đàn ông nữa tới và ngồi đối diện với
tôi, nét mặt có vẻ hoan hỉ. Anh trưởng thôn giới thiệu với
tôi một trong hai người ấy là Nay Xa, con cụ Đinh Suân.
Cả Nay Xa và người kia đều rụng một số ngón chân, ngón
tay. Chân cẳng họ trầy trụa nhiều chỗ, máu rỉ ra từ đó
đỏ bầm, một vài đầu ngón chân vẫn chảy máu như là cái
ngón vừa mới rụng xong. Qua câu chuyện với họ, tôi biết
Nay Xa đang là lao động chính của gia đình, ông đang
phải nuôi già Đinh. Nhìn những ruộng lúa nước quanh
chân núi, nhìn con đường đầy phân bò và cát bụi, nhìn
những bàn chân nứt nẻ ứa máu vì bệnh tật tôi cố kiềm nén
cơn rùng mình, hỏi Nay Xa: “Chân cẳng thế kia thì làm
sao xuống ruộng được?”. “Ô phải làm thôi. Không làm thì
chết đói”. Rồi ông chỉ sang già Suân: “Cán bộ à! Phải làm
sao xin cho bố mình cái chính sách của cách mạng chứ.
Đau ốm lâu quá rồi, kêu miết rồi mà không được?”. Rồi
ông vào nhà mang ra một tập giấy tờ đưa cho tôi. Đó là tờ
đơn của Đinh Suân xin được hưởng chính sách người có
công với cách mạng. Tờ đơn dài 7 trang viết tay, có chữ
ký của một số cán bộ cũ từng giữ chức vụ trong đảng của

Không nỡ nhìn lâu vào những gương mặt xác xơ, đau
khổ của nhiều người bệnh từ đâu đã kéo đến, tôi quay
người trông ra bốn phía làng cùi. Núi Chư A Thai xanh
thắm sau lưng, cánh đồng lúa vàng ửng trước mặt. Sự
sống vẫn trải ra từ núi rừng trời đất, từ những cặp mắt
trẻ thơ. Bất giác, tôi liên tưởng đến những làng phong ở
huyện Chư Sê. Lý lịch già Đinh được tóm tắt như sau: dân
tộc Bana, sinh 1933. Bị bệnh cùi từ năm 1951. Tham gia
cách mạng từ năm 1955. Năm 1957 vào Chiến khu 7 thuộc
K11 ở làng Klây Pông, xã Ayun, Chư Sê (huyện Khu 7
cũ). Ông làm giao liên, làm công tác tiếp vận chuyển gạo
đạn thuốc men cho Khu căn cứ và đã được kết nạp Đảng
tại một chiến dịch phục vụ cho mặt trận; ông được tặng
thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ. Sau ngày
giải phóng miền Nam, vì bệnh phong quá nặng, ông được
chuyển về Blay Măk xã Eake (Ayun Pa) để sống tập trung
cùng những người đồng bệnh như mình. Ông không được
hưởng chế độ gì, sống hết sức vất vả, khổ sở bằng sự cưu
mang của vợ chồng Nay Xa. Những người cùi cho chúng
tôi biết, thôn này có gần một nửa người bị cùi nhưng
già Đinh là người già nhất, có hoàn cảnh khó khăn nhất.
Trưởng thôn thì than phiền rằng trước đây thường có bác
sỹ tên là Hưng ở tỉnh về điều trị và cấp thuốc cho bà con bị
bệnh, từ năm 1995 đến nay, bác sĩ bảo đã điều trị dứt điểm
rồi nên không về nữa. Hầu hết các con bệnh gặp khó khăn
về đời sống vì khả năng hạn chế, một số người bị tái phát,
bị lở loét, rụng ngón mà không được chăm sóc chu đáo.
Anh cũng đọc cho tôi hàng loạt cái tên rất khó nhớ đang
bị bệnh hủi hành hạ ngày đêm như: Siu Răm, Siu Hy, Siu
Chăm, Siu Nhớp, Kso Ret, Kso Cưng, Kso Rblok, Ro Nhai,
Ro Thui, Nay Blơnh, Nay Tuyt, Rlanlut… Bản thân Nay
Xa bị cùi cách đây 25 năm, hiện tại từ đùi xuống vẫn còn
lở loét, vẫn rụng ngón và đau đớn vô cùng.

Quỳnh Lập, ở Quy Hòa những nơi đó nỗi đau của người
bất hạnh đã vợi đi nhiều bởi sự chăm sóc của cộng đồng
xã hội. Tôi nhìn những đứa bé hồn nhiên chạy theo mình
từ ngoài gốc đa vào đây và lo lắng nghĩ rằng: không biết
trong dòng máu của chúng có tiềm ẩn căn bệnh gớm ghiếc
này không? Có cách gì để ngăn chặn sự lây lan hoặc khả
năng di truyền của nó?
Rơ Chăm Chiến chỉ về dòng kênh được bê tông hóa
chạy song song Quốc lộ 25, nói với Đinh Thu Hường và
tôi: “Dòng sông nổi chạy ngay đó nhưng muốn có nước
cho 10 ha ruộng lúa của làng thì khá vất vả vì ruộng ở
đây cao hơn mặt kênh, phải có bơm lớn thì mới giải quyết
được nước cho lúa”. Rồi Chiến như tự hỏi: “Làm sao để có
được bơm? Có bơm thì phải có điện? Viện Kiểm sát tỉnh
cũng đã đặt vấn đề này với một số cơ quan để giúp dân
làng. Với khả năng của Viện, hàng tuần có vài cán bộ về
đây cùng ăn, cùng ở với dân, giúp đỡ dân trong việc thay
đổi tư duy sản xuất, nâng cao văn hóa và dân trí, nâng
cao nhận thức chính trị, hiểu biết pháp luật và giúp đỡ
ít nhiều về đời sống vật chất. Những đầu tư lớn thì Viện
phải đề xuất với chính quyền thôi”. Cô kỹ sư nông nghiệp
băn khoăn: “Vấn đề là làm sao cho những người bệnh này,
cho làng cùi này khá hơn về đời sống vật chất. Tự họ thì
khó lắm”. Rơ Chăm Chiến nhìn Đinh Thu Hường lắc đầu
nhè nhẹ: “Em không biết đó thôi, phần vì bệnh tật, phần
vì bản tính lâu đời của người dân ở đây, họ không biết cất
dành, gom góp, vì vậy có gì họ xào xáo luôn à. Hôm sau
hết: Nhịn! Chính vì vậy phải dạy cho họ thay đổi tư duy,
cho họ con cá để giúp họ tồn tại trước mắt nhưng phải cho
họ cái cần và lưỡi câu để họ phát triển lâu dài”.
Tôi chợt nhớ lại lời Viện trưởng Phan Văn Sơn: phải
làm được cái gì đó cho cộng đồng xã hội biết mà giúp đỡ họ.

Tôi đặt vào bàn tay không còn ngón của già Đinh Suân
một ít tiền làm quà, cảm giác được món quà của tôi là hạt
muối bỏ biển, như con cá nhỏ của một chuỗi ngày dài
thiếu thốn gian nan của già Đinh và dân làng. Rơ Chăm
Chiến ơi! Anh nói rất đúng, với dân làng Blay Măk, có lẽ
cái máy bơm và sự gần gũi của cộng đồng, trong đó các
cấp chính quyền và đặc biệt là ngành Y tế chính là cái cần
và lưỡi câu để vực cuộc sống của làng lên.
Gia Lai - Đà Nẵng 6.2005

unnamedmn

 

In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
BẢN QUYỀN THUỘC CÂU LẠC BỘ VĂN CHƯƠNG
Địa chỉ: số 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Nguyễn Thị Mai
Tổng Biên tập: N.văn, LLPB - P.giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho
 
ĐIỆN THOẠI & EMAIL LIÊN HỆ
Tel:  1- 0328 455 896. 2- 0855 890 003.
Nhà văn, Phó Gs, Tiến sỹ VŨ NHO:  vunho121@gmail.com