HÀ NỘI TRONG MẮT NHÌN “NGƯỜI NÚI”
Qua 2 tập thơ Lê Tuấn Lộc – Người núi người phố ( 2005) và Không tin về Hà Nội mà coi ( 2009, Nxb Văn hóa dân tộc.
Vũ Nho
VŨ NHO - Ảnh HOÀNG XUÂN TUYỀN
Tiến sĩ nhà thơ Lê Tuấn Lộc, quê Thanh Hóa, nhưng gắn bó với nghề tìm quặng và làm mỏ chủ yếu ở Tuyên Quang và miền núi phía Bắc. Rồi nhà thơ lại về định cư Hà Nội. Về Hà Nội, thành công dân Thủ Đô, nhưng cái cốt cách của “người núi” đã ăn sâu vào cách nghĩ, cách nhìn, cách nói, và cách thể hiện. Về Hà Nội, sống trong môi trường đô thị hiện đại, khác hẳn môi trường rừng núi tự nhiên, phóng khoáng, khiến cho tác giả trăn trở khôn nguôi. Anh viết “ có cách gì để thể hiện cái cổ truyền trong cái hiện đại, cái riêng của dân tộc- miền núi trong lòng Thủ đô Hà Nội, nơi mà tôi đang sống, với một phong cách chân chất nhưng lại sinh động nhất” ( Tự bạch – trong tập “Không tin về Hà Nội mà coi”). Sự trăn trở đó cuối cùng đã tìm được lời giải bằng thực tiễn sáng tác trong 2 tập thơ “ Người phố- Người núi” và “ Không tin về Hà Nội mà coi”.
Hà Nội thành phố cổ kính và hiện đại, là trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả nước. Hà Nội là thành phố đã có hơn ngàn năm tuổi. Trước đây chỉ có ba mươi sáu phố thôi. Bây giờ thì nhiều phố quá. Lại thêm rộng vô cùng sau khi nhập cả tỉnh Hà Tây vào nữa!
Người núi, người bản về Hà Nội, đi thăm phố cổ, vô cùng ngạc nhiên bởi:
Phố cổ cái gì cũng mới
Nhìn mãi không cổ tí nào
Không tìm thấy nét “cổ”, mà cái tên phố cũng không khớp với tên hàng hóa bày trên phố, thậm chí khác xa, rất xa:
Hàng Giấy bán đầy những phở
Hàng Giầy bán cả quang treo
Hàng Đường những là tơ lụa
Hàng Than không ai bán than
Lạ nhất là không phải 36 phố như sách nói, mà có nhiều “phố lạ”, chỗ nào cũng giống nhau cả, làm người bản “lạc đường”. Lại lạ hơn nữa là giá cả đắt kinh hoàng “ Cổ đắt cắt cổ”. Người bản thèm rượu, nhưng không thể uống rượu:
Thèm rượu vào tiệm uống rượu
Chủ bày ra toàn rượu tây
Chai rượu bằng hơn tấn sắn
Bữa nhắm, mình ăn cả năm
Chỉ nguyên bấy nhiêu chuyện mà người bản đi phố cổ nhận xét cho thấy phố khác xa bản, người phố khác xa người núi, khác nhau thật nhiều!
Nhà thơ mượn lời hồn nhiên của con trẻ để nhận xét về Hà Nội:
Người Hà Nội thích ở ngoài đường
Không thích ở nhà […]
Người đông như kiến
Đi như hội
Người Hà Nội chỉ đi chơi
Không đi làm
( Cháu tôi bảo)
Nhìn những con đường Hà Nội đông chật xe máy như nước chảy suốt ngày đêm thì cứ ngỡ “ Người Hà Nội chỉ đi chơi”, biết đâu phần lớn người đi trên đường là đang “đi làm”!
Có điều này thì đúng trăm phẩn trăm, “chuẩn không cần chỉnh”. Ấy là “ Hà Nội nhiều người giỏi”. Đi chợ gặp “chị Vụ trưởng”; đi đổ rác gặp Giáo sư Thứ trưởng. Đúng là “ Người giỏi Hà Nội nhiều như lá rừng”. Đã thế , số lượng người giỏi cứ tăng không ngừng:
Mấy cháu bản mình đi học Hà Nội
Chả đứa nào muốn về quê
Về bản khổ lắm
Không giỏi được
Làm cho Hà Nội đã giỏi lại càng giỏi
Một ước muốn rất chân thành nhưng mãi mãi chỉ là ước mơ, mãi mãi chỉ có trong mơ:
Cách gì chia bớt tiền người giàu Hà Nội cho người nghèo ở bản
người bản bớt nghèo đi
Hà Nội không nghèo hơn
chia bớt người giỏi Hà Nội cho miền núi
chắc miền núi giỏi lên rất nhiều
chia bớt đất rừng miền núi cho Hà Nội
Hà Nội bớt chật hẹp hơn
(Hà Nội nhiều người giỏi)
Gặp bóng áo chàm trên đường phố Hà Nội, người núi không thấy vui mừng mà cứ “day dứt mãi”. Bởi vì sao? Vì cái “màu xanh dầu dãi” ấy không ở nơi quen thuộc của nó!
Nào đâu những triền đồi
Bóng áo chàm lóa nắng
những hoàng hôn bằng lặng
lóc cóc trâu về chuồng
bóng áo chàm thoáng qua
người áo chàm ngoái lại
thế rồi day dứt mãi
cánh rừng có nương ngô
(Bóng áo chàm trên đường Hà Nội)
Tập thơ “ Không tin về Hà Nội mà coi” có 20 bài nói về Hà Nội trong mắt nhìn của “người núi” hoặc “ người bản”. Vẫn một quan sát tinh tế, một cách nghĩ đơn giản, mộc mạc mà chuẩn xác.
Hà Nội bây giờ mở rộng bao gồm cả Hà Tây cũ. Hà Nội không chỉ có người Tày, người Nùng, người Thái, người Mông, người Dao,… Thế nhưng “ Hà Nội không thấy người thiểu số” ! Vì sao?
Người Sán Chay về Hà Nội nói tiếng Kinh
Không nói tiếng Sán Chay
Người Mường về Hà Nội không nói tiếng Mường
Nói tiếng Kinh Thanh Hóa […]
Gái Thái có chồng không búi tằng cẩu
Cô gái người Dao vòng cổ không đeo
Các dấu hiệu tiếng nói, trang phục, tập quán không được thể hiện, người dân tộc, người thiểu số lẫn vào người Kinh nên viết thế có cái đúng. Tác giả tự tin khẳng định:
Mình nói thật đấy
Tìm mà không thấy
Đừng gân cổ lên mà cãi
Cho dù em là người Sán Chay
Và để đoan chắc cho phát hiện của mình, tác giả viết như cam đoan, như thách thức:
Không tin về Hà Nội mà coi!
( Hà Nội không thấy người thiểu số)
Trong con mắt của “người núi”, Hà Nội thật kì lạ, thật văn minh. “Hà Nội ăn cả ngày cả đêm”, “ Hà Nội người nào cũng đẹp”, “ Hà Nội có máy rút tiền”. Hà Nội có “ Máy tự làm sướng”, “ Nhà sàn giả”, “ Cửa tự động đóng mở”, “ Nước chảy theo ý mình”,…
Cả đến rác thải ở Hà Nội cũng không giống như ở miền Rừng.
Rác chất cao như núi
Đến nỗi Hà Nội nhiều người sồng bằng nghề bới rác
Đến nỗi Hà Nội có cả nhà máy xử lí rác
( Rác ê!)
Thật thú vị khi “người núi” cảm nhận về đêm nhạc giao hưởng:
Nhà hát lớn Hà Nội choáng ngợp
Đèn hoa lung linh
Tường thơm
Người thơm
Ghế ngòi cũng thơm[…]
Chẳng nhẽ bỏ về giữa chừng
Bất lịch sự
Giao hưởng là thứ gì mình không hiểu
Cứ đi
Cứ nghe
Nghe mãi không hiểu
Mà cứ giả vờ hiểu
( Nghe nhạc giao hưởng).
Đúng như nhà thơ Bằng Việt đã nhận xét “ Anh làm ta bất ngờ vì chính chúng ta ở đây lâu. Đã quen, đã bị chai cứng đi vì mọi thói quen hàng ngày, còn anh, anh lại đã có vốn mười mấy năm ở mãi vùng cao, anh đã biết lạ hóa không gian sống miền xuôi bằng một cách nhìn khác, sắc sảo và nhạy bén, đến mức chúng ta lại phải cười xòa và chịu phục anh: “ Miền núi gì mà tinh tường, ma xó thế!”. Cái cảm giác thú vị và bất ngờ song đôi ấy, từ cảm nhận ở cả hai chiều: Thô mộc và tinh tế, chất phác và lọc lõi, nôm na và khái quát, trần thuật mà lại là triết lí, buông thả mà lại thành đúc kết.v.v. luôn luôn là những phẩm chất song trùng” ( Lời giới thiệu tập thơ Người núi – người phố).
Vâng! Đúng là thủ pháp “lạ hóa” được tác giả Lê Tuấn Lộc vận dụng một cách nhuần nhuyễn, hồn nhiên, mặc dù có thể chưa từng liếc qua định nghĩa “ lạ hóa” của các nhà nghiên cứu. Lạ hóa vì Hà Nội được nhìn bằng cặp mắt của người núi, được cảm bằng tỉnh cảm của người núi, được đánh giá bằng lí trí khôn ngoan của người núi. Vậy nên rất yêu Hà Nội, rất thích Hà Nội, nhưng chỉ ở chơi, chỉ sống ít ngày thì thú vị, còn ở mãi thì… không!
Cá chuối đắm đuối vì con
Hà Nội mế đâu có thích
Chỉ thằng cún con là nghịch
Cho mế vơi nỗi nhớ rừng
Thì mai cún con đầy tháng
Chúng mày cho mế về quê
Nơi vui không người trò chuyện
Còn buồn hơn trên nương ngô
(Mế về thôi!)
Chúng tôi nghĩ rằng tác giả đủ tình cảm, đủ lí trí để yêu Hà Nội, cũng đủ cả tình cảm và lí trí để yêu miền núi. Vì thế mà viết người núi tập làm người phố nhưng không như người phố được. Vì thế mà cái “ý thích” chỉ là nhất thời, không bền của cả người nọ (người núi) lẫn người kia (người phố):
Người núi thích về thành phố […]
Ra đường không ai hỏi ai
Người núi lại muốn về núi […]
Người phố thích về rừng […]
Về rừng
Bí rì rì […]
Người phố lại muốn về phố
( Người núi người phố)
Vì hiểu thấu cảm xúc của người núi, người phố nên Lê Tuấn Lộc có những bài thơ viết về Hà Nội độc đáo, đặc sắc không lẫn với bất kì nhà thơ nào! Đó chẳng phải là một thành công đáng ghi nhận hay sao!
Hà Nội, 6/6/2024
IN TRONG "NGƯỜI HÀ NỘI", THÁNG 8 /2024
Người gửi / điện thoại