范 師 孟
PHẠM SƯ MẠNH
(1303 - 1384),
Phạm Sư Mạnh (chữ Hán: 范 師 孟; 1300 hoặc 1303 - 1384), tên thật là Phạm Độ, tự Nghĩa Phu, hiệu Úy
Trai, biệt hiệu Hiệp Thạch; là danh sĩ và là quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng thông
minh, hiếu học và là học trò xuất sắc của Chu Văn An. Năm 1323, ông đỗ Thái học sinh (tương đương
tiến sĩ), làm quan dưới 3 triều đại gồm: Trần Minh Tông, Trần Huệ Tông, Trần Dụ Tông. Sinh thời, Phạm Sư Mạnh nổi tiếng với tài văn thơ xuất chúng. Ông đã đi khắp đất nước và để lại nhiều bài thơ hay.
和 大 明 使 題 珥 河 驛 其 三
新 朝 使 者 樂 從 容 ,
江 上 春 風 試 倚 笻
玉 珥 寒 光 侵 廣 野
傘 圓 霽 色 照 昇 龍
文 郎 城 古 山 重 疊
翁 仲 祠 深 雲 淡 濃
醉 墨 淋 漓 題 驛 壁
清 朝 人 物 盛 三 雍
范 师 孟
HỌA ĐẠI MINH SỨ
ĐỀ NHỊ HÀ DỊCH
(kỳ tam)
Tân triều sứ giả lạc thung dung,
Giang thượng xuân phong thí ỷ cùng
Ngọc Nhị hàn quang xâm quảng dã,
Tản Viên tễ sắc chiếu Thăng Long
Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp,
Ông Trọng từ thâm vân đạm nùng
Tuý mặc lâm ly đề dịch bích,
Thanh triều nhân vật thịnh tam ung.
Phạm Sư Mạnh
Dịch nghĩa:
HỌA THƠ SỨ MINH ĐỀ
Ở TRẠM DỊCH NHỊ HÀ
(kỳ 3)
Sứ giả triều mới vui vẻ, thung dung,
Trước gió xuân trên sông, chống chiếc gậy trúc.
Sông Nhị như ngọc, sáng mát thấm đồng ruộng,
Tản Viên khi tạnh, sắc núi chiếu đến Thăng Long.
Thành cổ Văn Lang, núi non trùng điệp,
Đền Ông Trọng thâm nghiêm, mây đạm nhạt.
Mực say còn lai láng đề trên vách nhà trạm,
Nhân vật thời thịnh, vui vẻ thuận hòa.
Dịch thơ :
HỌA THƠ SỨ MINH ĐỀ Ở TRẠM DỊCH NHỊ HÀ
(kỳ 3)
Sứ thần triều mới vẻ thong dong
Chống gậy du xuân trên bến sông
Ánh sáng Nhị Hà tràn cánh bãi
Màu xanh Núi Tản chiếu Thăng Long
Đền thiêng Ông Trọng mây mờ nhạt
Thành cổ Văn Lang núi điệp trùng
Lai láng mực say đề vách trạm
Người trong thời thịnh thảy vui lòng.
阮 飛 卿
NGUYỄN PHI KHANH
(1355 - 1428)
Nguyễn Phi Khanh tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu là Nhị Khê. Ông sinh khoảng 1355 tại Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, huyện Quốc Oai, trấn Nam Sơn Thượng. Tổ tiên của ông vốn ở xã Chi Ngại,
huyện Phượng Nhân, trấn Kinh Bắc. Ông là phụ than của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, đỗ Tiến sĩ năm
Giáp Dần (1374); Năm 1402 làm Học sĩ viện Hàn lâm, rồi lần lượt được thăng quan; Cuối cùng làm Tư
nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1407 ông bị quân Minh bắt đưa sang Trung Hoa. Tác phẩm có Nhị Khê thi
tập (đã mất) và Nguyễn Phi Khanh thi văn (Bài thơ: Đề huyền thiên tự” lấy trong tập Nguyễn Phi Khanh
thi văn.
題 玄 天 寺
仙 家 一 簇 聳 雲 岑,
路 入 煙 蘿 窅 窱 深
樹 影 長 年 圍 古 澗,
花 枝 清 午 囀 幽 禽。
官 閒 我 得 修 身 訣,
老 去 天 知 學 道 心。
若 見 赤 松 憑 寄 語,
佳 遊 何 日 果 幽 尋
阮 飛 卿
ĐỀ HUYỀN THIỀN TỰ
Tiên gia nhất thốc tủng vân sầm
Lộ nhập yên la yểu điệu thâm
Thụ ảnh trường niên vi cổ giản
Hoa chi thanh ngọ chuyển u cầm
Quan nhàn ngã đắc tu nhân quyết
Lão khứ thiên tri học đạo tâm
Nhược kiến Xích Tùng bằng ký ngữ
Giai du hà nhật quả u tầm.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa:
ĐỀ CHÙA HUYỀN THIÊN
Một tòa nhà tiên cao ngất từng mây
Đường vào giây leo khói phủ sâu thăm thẳm
Bóng cây quanh năm vây dòng suối cũ
Buổi trưa thanh vắng, trên cành hoa vắng tiếng chim líu lo
Quan nhàn hạ, ta tìm được bí quyết tu thân
Già rồi, lòng học đạo có trời biết
Nếu thấy (vi tiên) Xích Tùng, nhờ nhắn một lời
Đến ngày nào mới tìm thấy cuộc chơi hứng thú chốn thanh vắng?
Dịch thơ:
ĐỀ CHÙA HUYỀN THIÊN
Nhà Tiên một mái ngút tầng mây
Hun hút đường vào vương khói dây
Cổ thụ quanh năm vây suối cũ
Tiếng chim giữa ngọ vẳng trên cây
Tu thân bí quyết quan nhàn hạ
Học đạo tâm ta trời đã hay
Nếu gặp Xích Tùng xin nhắn gửi
Bao giờ vui dạo chốn yên này?
N.Đ.N.
Người gửi / điện thoại