Chúng tôi được mời vào ngồi chiếu trải sẵn giữa sân gạch, quanh một cây đèn tọa đăng thắp sáng. Thời ấy việc ra sách hoàn toàn theo kế hoạch bao cấp của Nhà nước, và việc làm tuyển tập cho từng tác giả được xếp sắp theo ưu tiên thứ bậc. Nhà thơ Đoàn Văn Cừ nằm trong diện ưu tiên đầu tiên. Nhà thơ Nguyễn Bao làm thủ tục trao sách cho tác giả. Chủ nhà hồ hởi đưa hai tay run run nhận chồng sách, nhặt ra một cuốn, ghé đèn chăm chú giở xem. Mọi người im lặng hồi hộp theo dõi. Đến khi nhà thơ cười lớn, lên tiếng: "Thế là Cừ có sách tuyển! Nhưng hẵng cứ để xem sau, giờ chuyện trò cho thỏa đã!". Mọi người hớn hở hưởng ứng.
Mãi quá nửa đêm, sau khi sắp xếp cho chúng tôi chỗ ngủ đâu vào đấy, nhà thơ họ Đoàn mới ngồi lại với cây đèn tọa đăng vặn nhỏ ở sân, lấy tuyển tập của mình ra xem..
Đi đường xa mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi ngay, sáng trở dậy lại lo thu xếp ra xe chia tay gia chủ để về Hà Nội sớm cho kịp một cái hẹn nên không nhận ra có gì khác thường. Nhà thơ họ Đoàn vẫn vui vẻ đưa tiễn chúng tôi ra tận xe. Mãi khi lên xe, đi một quãng anh Nguyễn Bao mới cho chúng tôi hay: Đêm qua nhà thơ Đoàn Văn Cừ hồ như thức trắng, đọc đi đọc lại tập tuyển tác phẩm của mình. Lúc đầu ông rất vui như mọi người đã thấy. Nhưng rồi càng đọc ông càng băn khoăn, bứt rứt… Và sáng ra mọi người không để ý thế thôi, chứ trông ông sắc thái không được vui. Thì ra tập sách in để lỗi khá nhiều…
Bẵng đi một thời gian, đến tháng Tư năm 1997 tôi chợt nhận được thư của nhà thơ họ Đoàn. Phong bì thư ông gửi khá dày, nhưng thư viết chỉ vài dòng, còn là kèm theo một xấp giấy chép thơ. Trong thư, nhà thơ họ Đoàn viết:
"...Xin trân trọng kính gửi Hội đồng Văn học, trang thơ dịch kèm theo đây: ĐƯỜNG VÀO THƠ.
10 vần thơ hai câu của 10 thi nhân, danh nhân Âu Á, cũng là 10 điều kinh nghiệm bất hủ, 10 điều tâm niệm của tất cả những ai cùng yêu thơ, cũng đã sớm "mang lấy nghiệp vào thân".
Đây là tâm thành, cốt lõi của vấn đề mà người dịch muốn gửi gắm.
Về kỹ thuật và quan niệm - nhất là quan niệm, Đoàn Văn Cừ vô cùng hy vọng vào giúp đỡ của nhà văn Thúy Toàn và Hội đồng văn học dịch".
Kèm theo hơn hai trang khổ A4 chép tay 10 khổ thơ 2 câu dịch thành thơ lục bát danh ngôn của Maxim Gorky, Nguyễn Du, Alfred de Musset, Alfred de Vigny, Boileau, Corneill, Đỗ Phủ, đi cùng có phụ chú - 10 bản tiếng Pháp, phiên âm Nôm của Hán văn cùng mười đoạn dịch nghĩa.
Chẳng hạn:
1: Thái dương sinh những bông hồng
Mẹ hiền sinh những anh hùng thi nhân
(Macxim Gorky: Sans le soleil, les fleurs ne s'éspanouissent pas, sans la mère, il n'y a ni poète ni héros.
Không có mặt trời, không có loài hoa nào nở được
Không có mẹ hiền, không có anh hùng và thi nhân)
2: Thi hào, quốc sĩ, vĩ nhân
Nhiều đau thương lớn, gian truân mới thành
(Alfred de Musset: Seules les grandes souffrances font les grands poètes
Chỉ từ những nỗi đau đớn, mới nảy sinh thi tài lớn)
Ít lâu sau, ngày 16/4/1997 nhà thơ Đoàn Văn Cừ lại gửi thư cho tôi, bổ sung thêm 3 khổ thơ do ông dịch ra lục bát danh ngôn của Giả Bảo, Lamartine, V.Hugo.
Trong thư gửi cho "thi hữu", nhà thơ họ Đoàn còn bộc lộ rõ quan điểm dịch của mình: "Dịch thơ cũng như làm thơ, lấy thơ, lấy thần là chính, thi tại ngôn ngoại, sắc ngoài sắc, vị ngoài vị.
Dịch giả và tác giả là đôi bạn đồng hành, đồng tâm, đồng điệu, bổ sung, phát triển lẫn nhau…".
Dịch thuật của nhà thơ Đoàn Văn Cừ có nét độc đáo riêng, có chủ đích rõ ràng, nhất quán. Ông muốn phổ biến những suy nghĩ, kinh nghiệm sáng tác nghệ thuật của các bậc danh nhân cổ kim đông tây giúp cho "thi hữu", những ai cũng sớm "mang lấy nghiệp vào thân".
Nhà thơ của đồng quê Việt Nam vận dụng thể thơ lục bát thân quen sở trường của mình để chuyển tải tứ thơ, triết lý cuộc đời, triết lý sáng tạo của các bậc tiền nhân kiệt xuất… Nói chung, đọc các khổ thơ dịch được ông gửi cho tham khảo tôi đều thấy suôn sẻ, dễ nhập, dễ đi vào lòng.
Tôi viết thư chia sẻ một vài cảm tưởng của mình sau khi được tiếp xúc với những dịch phẩm của ông gửi cho, nhà thơ lão thành viết tiếp thư mới cho tôi (13/5/1997): "Tha hương ngộ cố tri". Cừ đã nhận được thư anh, đề ngày 5/5/1997, đúng ngày Hội ta tổ chức long trọng kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Hội (1957-1997).
Xin chân thành cảm ơn nhà văn, khuyến khích bạn tiếp tục "Hoa thơm cỏ lạ" cho tới khi thành công".
Mấy năm sau khi tôi cũng đã nghỉ hưu, tháng 9/2002, một lần nữa lại có dịp về thăm nhà thơ họ Đoàn - cư sĩ thảo lư Sông Ngọc. Lần này cùng với anh Nguyễn Bao chúng tôi đi nhờ xe của nhà thơ Hữu Toàn do con trai anh lái, có cả người con trai của Đoàn Văn Cừ - họa sĩ Đoàn Văn Nguyên, cùng về quê.
Dọc đường hai nhà thơ Nguyễn Bao - Hữu Toàn thuộc nhiều thơ của nhà thơ họ Đoàn thay nhau ngâm đọc thơ họ Đoàn cho mọi người thưởng thức. Hai anh trao đổi bình luận về những câu thơ hay. Anh Hữu Toàn rất thích bài "Đường về quê mẹ", vừa ngâm nga:
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê,
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp
Người xới cà ngô rộn bốn bề
Anh nhận xét: Cụ Cừ giỏi tả cảnh thật! Mà thật giàu hình ảnh, màu sắc, âm thanh. Ở bài "Chợ Tết", cụ đã điểm tới trên hai chục màu sắc khác nhau hòa trộn trên bức tranh quê. Trong bài "Đường về quê mẹ" cụ cũng đưa ra, nào là: "Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần", rồi "cồn xanh, bãi tía", "Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu", "Mắt sáng, môi hồng, má đỏ âu", "…nắng nhạt vàng", "Trời xanh, cò trắng…", "xác lá vàng", "tà áo nâu…", "…cặp má hồng".
Anh còn thắc mắc: "Thúng cắp bên hông…", sao lại cắp thúng? Ở đây cái thúng đó dứt khoát không phải cái thúng to đựng thóc, đựng gạo, mà phải là cái thúng đựng trầu, đựng đồ khâu vá, kiểu con gái ngày nay đi đâu phải có cái sắc, cái túi… Có phải thế không anh Bao?
Đến nơi, trời còn sớm lắm. Nhà thơ lão thành đang vận quần dài vắn lên tận đùi, áo may ô ba lỗ ngồi trong "thảo lư". Năm ấy nhà thơ đã 90 tuổi, tai nghễnh ngãng nặng. Anh con, họa sĩ Đoàn Văn Nguyên đi vào buồng hò to chỉ ra sân.
Thay bộ quần áo ngủ nghiêm chỉnh từ buồng bên cạnh, nhà thơ trở lại buồng khách. Nhà thơ - cư sĩ họ Đoàn đã nặng tai lắm, khác hẳn mấy năm trước. Chuyện trò với ông phải viết ra giấy. Mắt thì vẫn tinh, đọc câu hỏi không phải đeo kính, cười thoải mái và trả lời đâu ra đấy. Không những thế nhà thơ còn kể hết chuyện này đến chuyện nọ, chuyện nhà, chuyện "bà lão" chăm lo cho chồng ra sao. "Bà lão" kém cụ ông một tuổi, nhưng còn mạnh chân mạnh tay, tinh tường hơn cụ ông nhiều. Rồi chuyện làng, chuyện huyện, lễ hội gần, lễ hội xa. Đã định trước lần về này thế nào cũng phải ghi được hình ảnh nhà thơ của đồng quê, tôi chuẩn bị sẵn máy ảnh và cứ loay hoay bấm máy thành thử quên khuấy mất việc hỏi thăm về công trình sưu tầm và dịch của nhà thơ họ Đoàn, mà mấy năm trước cụ đã trao đổi thư từ với tôi. Đến lúc lên xe sực nhớ ra thì đã muộn. Đành tự an ủi mình, chắc còn có lần trở lại.
Nhưng cuộc sống cứ thế cuốn đi, nhà thơ họ Đoàn cũng chỉ sống thêm được mấy năm nữa rồi đi. Ngày nhà thơ về với tổ tiên tôi không được biết. Ngoảnh đi ngoảnh lại gần chục năm trôi qua. Sực nhớ ra thì tiên sinh thi sĩ họ Đoàn, nếu trời còn cho ở với mọi người thì đến năm nay vừa tròn một thế kỷ.
Tôi tìm đến nhà họa sĩ Đoàn Văn Nguyên, hỏi về lễ kỷ niệm: "Lễ bách chu niên" của phụ thân anh sẽ được tổ chức ra sao? Nhân dịp này chắc anh sẽ soạn lại di cảo của phụ thân để có thể ra thành sách kỷ niệm truyền lại cho hậu thế. Trong đó thế nào cũng phải có di cảo "Hoa thơm cỏ lạ"? Tôi còn giữ đây 13 khổ thơ dịch chép tay của cố nhà thơ, xin góp, nếu cần".
Đã qua bao nhiêu thời gian kể từ khi những bài thơ của cố thi sĩ đồng quê họ Đoàn xuất hiện trên sách báo vào cuối những năm 30 thế kỷ trước, bạn đọc các thế hệ vẫn lưu truyền đến tận ngày nay. Những câu thơ dịch của thi sĩ nếu được tập hợp lại, phổ biến, tôi nghĩ bạn đọc cũng sẽ yêu quý và ghi nhớ, và qua đó khẳng định thêm một khía cạnh sáng tạo nghệ thuật ngôn từ độc đáo của thi sĩ họ Đoàn - mảng sáng tạo trong dịch thuật.
Mà thi sĩ Đoàn Văn Cừ quả là một dịch giả thơ thật sự độc đáo, chứ sao? Trong lý lịch trích ngang của thi sĩ cũng đã cho biết ông từng làm công việc của người dịch: "Năm 1948 tòng quân, tham gia kháng chiến chống Pháp, làm công tác văn nghệ, phiên dịch, công tác địch vận Liên khu III"